Câu đố là một thể loại văn học dân gian, gồm hai bộ phận: bộ phận lời đố và bộ phận lời giải (vật đố); lời đố bằng văn vần nhằm miêu tả vật đố một cách xác thực, hợp lẽ nhưng lại làm cho lạ hoá để khó đoán giải. Lời giải nêu tên vật đố, là những sự vật hành động phổ biến mà ai cũng từng hay, từng biết”(Ninh Viết Giao).
Đối với loài vật, sự chú ý của người dân phụ thuộc vào sự vật xa hay gần, ngoài hay trong tầm tay chế ngự của con người. Câu đố thường chỉ chú trọng những con vật ở gần, hoặc bên cạnh người, hay ở xa nhà nhưng trong tầm tay chế ngự. Các con vật trong nhà có thể là gia súc, gia cầm, những chó, mèo, trâu, bò, gà lợn…Lối nhìn loài vật thông qua cách nhân hoá, so sánh, ẩn dụ có khi là chơi chữ, nói lái, dùng từ đồng âm, đồng nghĩa…
Và dưới đây là những đặc điểm của con vật thường được miêu tả bằng cách so sánh liên tưởng trong quá trình sáng tạo câu đố của người Việt.
1. So sánh dựa trên sự giống nhau về hình thức của con vật
Đặc điểm hình thức bên ngoài được người ta so sánh liên tưởng nhiều nhất trong khi miêu tả về con vật.
Ví dụ: So sánh toàn bộ cơ thể con vật
Con gì trông tựa con voi
Nhưng ngà mọc ngược mà vòi lại không
(Con trâu)
Vừa bằng lá tre, le te dưới nước
(Con đỉa)
So sánh liên tưởng bộ phận cơ thể con vật:
Vừa bằng cái bát, san sát giữa đồng
(Vết chân trâu)
Một chổi mà quét hai hè
Quét đi quét lại những hai ba lần
(Đuôi trâu)
Con trâu, các bộ phận của con trâu, con đỉa ở đây được miêu tả hết sức sinh động và thú vị. Các sự vật được đem ra so sánh, liên tưởng là những vật quen thuộc hàng ngày, nhưng để tìm được đặc điểm chung giữa các yếu tố ấy mà liên tưởng, hẳn cần có sự quan sát tỉ mỉ và sự gắn bó mật thiết với các sự vật. Đặc biệt, khi so sánh từng bộ phận trên cơ thể con vật thì sẽ hấp dẫn và sống động hơn là khi so sánh toàn bộ cơ thể con vật.
Tám thằng dân khiêng cái quả
Hai ông xã xách hai cái kềm
Một lòng vì nước ngày đêm
Xây nhà dưới hố, bên trên dậu rào
(Con cua)
2. So sánh dựa trên sự giống nhau về kích cỡ của động vật
Đặc điểm kích cỡ cơ thể con vật cũng được so sánh theo hai cách: tất cả cơ thể con vật hoặc một bộ phận nhưng khác với đặc điểm hình thức ở chỗ, phần lớn người ta so sánh tổng thể cơ thể con vật nhiều hơn là từng bộ phận của chúng.
Vừa bằng quả mướp, ăn cướp cả làng
(Con chuột)
Vừa bằng hạt đỗ, ăn giỗ cả làng
(Con ruồi)
So sánh bộ phận cơ thể con vật
Chân to bằng cái cán thìa
Miệng chăm chỉ nói chuyện sớm khuya với trời
(Con gà)
3. So sánh đặc điểm cấu tạo và hoạt động của cơ thể động vật
Ở đặc điểm này, sự so sánh có thể dựa trên sự giống nhau về cấu tạo, hoạt động hoặc so sánh dựa trên sự đồng âm
Giúp người trải mấy ngàn thu
Sao người lại bảo ta ngu vô cùng
Sách ta luôn mang trong lòng
Sao người lại bảo dốt lạ lùng lắm thay.
(Con bò)
Ở đây người ta sử dụng từ đồng âm “sách”: sách có hai nghĩa, vừa là cuốn sách, vừa là một bộ phận trong cơ thể con bò.
Mắt tôi không khác ngọn đèn
Tối trời vẫn nhận bạn quen để chào
(Con chó)
Mắt chó rất sáng và tinh nhanh. Mắt chó được ví với ngọn đèn, đây là sự giống nhau về cấu tạo và hoạt động.
4. So sánh dựa trên sự giống nhau về màu sắc
Đặc điểm màu sắc của con vật thường được liên tưởng đến các loại trang phục của con người như quần xanh, áo đỏ, khăn trắng bận vai, mũ vàng, sắc vua ban…Ở đây, con vật được nhân hoá giống như con người vậy.
Mình xanh mặc áo chỉ vàng
Cà ruột tim tím cái gan hồng hồng
(Con cào cào)
Mặc áo xanh học mót
Nói mà chẳng hiểu đâu
(Con vẹt)
Màu xanh của con vẹt được ví với cái áo xanh rất đặc trưng của người nông dân
5. So sánh đặc điểm về tiếng kêu
Tiếng kêu của con vật thường được ví với các loại âm thanh như các loại nhạc cụ ngày xưa: cồng, kiểng, chuông, bạt. So sánh ở đây không phải là sự giống nhau về âm thanh mà là cùng có âm thanh.
Mẹ đi trước đánh cồng, đánh bạt
Con đi sau vừa hát, vừa reo
(Gà mẹ và đàn gà con)
Mình vàng thắt đai châu sa
Tiếng kêu rủ rỉ như là đàn tranh
Thân bé, cánh mỏng bay quanh
Hái hoa bắt nhuỵ, xây thành nuôi con
(Con ong)
6. So sánh đặc điểm về số lượng
Đặc điểm số lượng phần lớn dùng cho các loài vật sống theo đàn như: ong, kiến, vịt, bồ câu…có số lượng nhiều và thường được so sánh với con người.
Ví dụ: Lầu xây một cột, đôi tầng
Cửa trỏ vào mươi cái cân phân
Đôi ba chục thằng dân đi lui đi tới
Lầu nào vừa hẹp vừa cao
Khách ngoài đến trú xôn xao vui vầy
Lầu nào xấu xí, bầy hầy
Dân chính dân ngụ tẩy chay không về.
(Chim bồ câu)
7. So sánh đặc điểm về giống loài
Để nói về giống đực, giống cái của con vật, người ta thường hay liên tưởng tới giới tính của con người và nhân cách hoá con vật. Con vật trở thành thục nữ, gái chưa chồng, quân tử, chàng, thiếp….
Cô em là gái không chồng
Xây nhà bằng đất nằm trong một mình
Đêm ngày vò võ làm thinh
Biết ai là kẻ tơ tình với em.
(Con tò vò)
Lời đố thật vui tươi nhưng cũng khó đoán giải.
8. Mô tả dựa vào đặc điểm môi trường sống
Môi trường sống của con vật có thể là trên cạn, dưới nước, hay thậm chí ngay trên đầu người:
Nhà xây ở giữa rừng già
Sinh con đẻ cháu hằng hà nhiều thay
Thiên hạ bắt được giết ngay
Giết ngay thì chớ còn bảo: “Mày đàn ông”
(Con chấy)
Con chấy có môi trường sống là ngay trên đầu người. Đầu người lại có nhiều tóc nên được ví với rừng già. Một cách so sánh, liên tưởng thật độc đáo và thú vị.
9. Mô tả hay so sánh về cách thức di chuyển
Người ta sử dụng hình ảnh “đi mây về gió”. Vốn là cách đi lại của tiên giới, để nói về cách di chuyển của con chim, hay con vật nào đó di chuyển bằng cách bay.
Trên đây là những đặc điểm, thuộc tính của con vật được miêu tả bằng cách liên tưởng đến những đối tượng khác có chung đặc điểm ở một mặt nào đó. Hầu hết sự liên tưởng là ở các đặc điểm ngoại hình như hình thức, cấu tạo, kích cỡ, tên gọi, màu sắc. Điều này chứng tỏ người Việt có xu hướng miêu tả những đặc điểm bề ngoài của con vật với những gì mà người ta có thể quan sát được.