foto1
Khoa Tiếng Việt
foto1
Khoa Tiếng Việt
foto1
Khoa Tiếng Việt
foto1
Khoa Tiếng Việt
foto1
Khoa Tiếng Việt

+(084)0393.885.133
khoatiengviet@htu.edu.vn
Liên hệ



Tháng 9 về, mang theo một làn gió se lạnh, khẽ khàng len lỏi qua từng kẽ lá, đánh thức vạn vật sau giấc ngủ hè nồng nã. Đó là lúc đất trời khoác lên mình chiếc áo mới, lãng đãng và dịu dàng, báo hiệu mùa thu đã thực sự gõ cửa.

Nhớ những buổi sớm tháng 9, khi sương còn vương vấn trên những cành cây, giọt nắng đầu tiên rắc vàng qua kẽ lá, tạo nên những vệt sáng lung linh huyền ảo. Đâu đó, mùi hương hoa sữa thoang thoảng bay trong gió, đánh thức những ký ức xưa cũ, những hoài niệm ngọt ngào của một thời đã qua. Tháng 9 không ồn ào, vội vã như những tháng hè rực lửa, mà lắng đọng, trầm tư như một bản nhạc giao hưởng dịu êm. Những con đường quen thuộc bỗng trở nên lãng mạn hơn dưới sắc vàng úa của lá cây. Từng chiếc lá khô lìa cành, chao nghiêng trong gió rồi nhẹ nhàng đáp xuống mặt đất, tạo nên một tấm thảm vàng rực rỡ. Mỗi bước chân đi như đang dẫm lên một khúc nhạc của thiên nhiên, nghe tiếng lá khô xào xạc dưới gót chân, lòng bỗng thấy bình yên đến lạ.

Tháng 9 cũng là mùa của những món quà đặc biệt từ đất mẹ. Mùa của cốm xanh, của thị vàng, của những trái hồng chín mọng. Không gì tuyệt vời hơn khi được thưởng thức một chút cốm dẻo thơm, nhấp một chén trà nóng trong tiết trời se lạnh của mùa thu. Những hương vị ấy không chỉ làm thỏa mãn vị giác mà còn gợi lên những cảm xúc thân thương, ấm áp về quê hương, về gia đình.

Mùa thu tháng 9 còn là mùa của những buổi chiều tà nhuộm tím chân trời, những ráng chiều hoàng hôn rực rỡ, lãng đãng. Những khoảnh khắc ấy khiến ta muốn dừng lại, hít thở thật sâu, để cảm nhận hết vẻ đẹp bình dị mà quyến rũ của mùa thu.

Tháng 9 về, không chỉ mang theo sự thay đổi của thiên nhiên mà còn gieo vào lòng người những cảm xúc bâng khuâng, những suy tư trầm lắng. Đó là lúc ta nhìn lại những gì đã qua, trân trọng những khoảnh khắc hiện tại và mơ về những điều tốt đẹp phía trước. Mùa thu tháng 9, một vẻ đẹp không cần tô vẽ, cứ thế nhẹ nhàng đi vào lòng người, để lại những dư vị khó quên.

Ngày 30/7/2025, Khoa Tiếng Việt - Trường Đại học Hà Tĩnh đã tổ chức cho lưu học sinh (LHS) Lào đến tham quan “địa chỉ đỏ” ở Nghệ An và Hà Tĩnh. Đây là một hoạt động bổ ích, đầy ý nghĩa không chỉ giúp học sinh có những kiến thức thực tế về các di tích lịch sử cấp quốc gia đặc biệt nhằm tăng thêm hiểu biết về những giá trị lịch sử, văn hóa, về đất nước và con người Việt Nam mà còn rèn luyện thực tế năng lực nghe, nói tiếng Việt cho LHS Lào trong thời gian học tiếng Việt.

“Địa chỉ đỏ” đầu tiên các em LHS Lào tham quan là Hoàng Trù quê mẹ và Làng Sen quê cha - nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sinh ra và trải qua khoảng trời tuổi thơ trước khi đi ra thế giới để thay đổi vận mệnh dân tộc và trở thành vị lãnh tụ vĩ đại của Việt Nam, danh nhân văn hóa thế giới. Các em rất xúc động khi nghe thuyết minh về cuộc đời của Bác Hồ và khi được nhìn thấy những di vật đã gắn liền với cuộc sống, sinh hoạt bình dị của Bác cùng gia đình. Và có lẽ giữa không gian thanh bình yên ả, bát ngát hương sen, hương bưởi,  bát ngát sắc xanh của những hàng tre, của rào dâm bụt, của cánh đồng lúa…có lẽ các em đều cảm thấy như mình vừa được gặp Hồ Chủ tịch giữa bóng dáng quê hương gần gũi, thân thương. Thăm quê Bác đã phần nào giúp các em hiểu rõ hơn về quê hương, đất nước và con người Việt Nam, đặc biệt là về Chủ tịch Hồ Chí Minh – người đã xây dựng nền móng, vun đắp cho tình hữu nghị đoàn kết  Việt - Lào mãi mãi vững bền.

Tiếp theo, các em LHS Lào được đến với “địa chỉ đỏ” Ngã ba Đồng Lộc vào  buổi trưa cuối tháng bảy chói chang nắng nhưng các em vẫn chăm chú lắng nghe thuyết minh và xem đoạn phim tư liệu về Ngã ba Đồng Lộc kể về một quá khứ bi thương nhưng rất đỗi hào hùng của nhân dân Hà Tĩnh anh dũng, kiên cường, bất khuất và đặc biệt  là câu chuyện của 10 cô gái thanh niên xung phong đã trở thành biểu tượng cao đẹp của lòng yêu nước. Sau đó, các em đã dâng những bó hoa tươi và thắp nén hương để tưởng nhớ sự hi sinh anh dũng của 10 nữ thanh niên xung phong và các anh hùng liệt sĩ. Đã được nghe, được xem về Ngã ba Đồng Lộc nhưng khi tận mắt nhìn thấy những kỉ vật như bức thư gửi mẹ, đôi dép cao su đã rách, những quyển sổ ghi chép đã nhàu nát, chén bát, bi đông nước, chiếc lược chải tóc đã nhuốm màu thời gian... được trang trọng bày biện trong khu di tích, các em dường như đã lắng lại lòng mình để cảm nhận về bao câu chuyện xúc động trong những năm kháng chiến chống Mỹ ở Việt Nam. Ngoài ra, các em còn có trải nghiệm mới vô cùng ấn tượng với sa bàn điện tử bởi chỉ với những nút bấm trên màn hình cảm ứng, có thể khám phá, nắm được tất cả thông tin về Khu di tích Ngã ba Đồng Lộc đã được tái hiện vô cùng sống động bằng công nghệ 4.0. Học sinh nước bạn Lào đã không quên lưu giữ chuyến đi bằng những tấm hình,  những video vừa để làm kỉ niệm vừa làm tư liệu  học tập.

Chuyến đi thực tế đến với  “địa chỉ đỏ” là một hoạt động vô cùng ý nghĩa không chỉ giúp LHS Lào có những kiến thức thực tế về các di tích lịch sử nổi tiếng tại Nghệ An, Hà Tĩnh nhằm tăng thêm hiểu biết về những giá trị lịch sử, văn hóa, về đất nước vào con người Việt Nam mà còn rèn luyện thực tế năng lực nghe, nói tiếng Việt. Có những chuyến đi để mà đến nhưng lại có những chuyến đi sẽ để lại trong lòng mỗi chúng ta những dư âm không thể nào quên! Với chuyến đi này, tôi tin là hoạt động trải nghiệm đầy thú vị của tuổi thanh xuân, là kỉ niệm thật đáng nhớ trong thời gian học tiếng Việt ở Việt Nam của các em học sinh Lào thân yêu.

Hãy đến với Khoa Tiếng Việt, cùng khám phá những cơ hội học tập và mở ra những chân trời mới!

Khoa Tiếng Việt - trường Đại học Hà Tĩnh từ lâu đã được xem như cái nôi đào tạo, bồi dưỡng con đường học tập và phát triển của nhiều thế hệ học sinh Lào. Với sứ mệnh thiêng liêng "kết nối văn hóa và ngôn ngữ", các giáo viên khoa tiếng Việt đã và đang không ngừng lan tỏa giá trị của tiếng Việt - một ngôn ngữ giàu bản sắc và truyền thống.

Suốt thời gian qua, khoa Tiếng Việt đã xây dựng một nền tảng giáo dục vững chắc thông qua những chương trình giảng dạy chất lượng, đội ngũ giảng viên đầy nhiệt huyết và các hoạt động giao lưu văn hóa phong phú. Các thế hệ học sinh Lào không chỉ được học ngôn ngữ mà còn tiếp cận với tâm hồn, lịch sử, và con người Việt Nam, tạo nên sự kết nối sâu sắc giữa hai dân tộc Lào Việt. Các em học sinh Lào khi vào học ở đây, đều được trang bị những kiến thức, kĩ năng nền tảng vững chắc về ngôn ngữ. Những kiến thức , kĩ năng này không chỉ giúp các em sử dụng tiếng Việt thành thạo trong học tập, công việc mà còn tự tin hòa mình vào cộng đồng quốc tế. Những bài học không chỉ là câu chữ mà còn là sự trân trọng, hiểu biết và yêu thương giữa hai nền văn hóa.

Hãy cùng tự hào và lan tỏa về cái nôi đào tạo tiếng Việt này - nơi từng bước khẳng định vị thế là chiếc cầu nối quan trọng càng làm cho tình hữu nghị Việt Lào càng mãi xanh tươi. Hành trình đầy cảm hứng này sẽ tiếp tục được viết nên bởi những trái tim đầy nhiệt huyết, những câu chuyện đẹp về sự gắn kết và phát triển.

Văn hóa là một trong những điều gắn liền với mỗi dân tộc cũng là của mỗi vòng đời có ý nghĩa quan trọng đối với cuộc sống con người, được con người kế thừa và thực hiên từ xa xưa và phát triển theo từng thời kỳ cho đến hiện tại. Việc thực hiện các phong tục tập quán trong nếp sống của người dân Phuôn ở huyện Khoun phản ánh sâu sắc bản sắc văn hóa đặc trung của cộng đồng này.

        Dưới đây là một số nét nổi bật:

  1. Phong tục sinh con:

Phong tục sinh con của người dân Phuôn mang đậm dấu ấn văn hoá truyền thống, kết hợp giữa tín ngưỡng dân gian và ảnh hưởng của Phật giáo. Đây là một nghi lễ rất quan trọng và có nhiều bước phải thực hiện như: cắt rốn, ở cữ, hết cữ. Mỗi bước đều có nét đặc trưng riêng như cắt dây rốn: trước đây, thường sinh con thuận tự nhiên ở tại nhà có bà đỡ hoặc chồng cắt dây rốn.Theo phong tục tập quán một số người còn tin rằng phải lấy dây rốn treo vào ống tre và để trong nhà ba ngày, sau đó để bố của đứa trẻ lấy dây rốn đó chôn ở nơi có mối hoặc dưới cây mận để cầu may mắn cho đứa trẻ. Phụ nữ sau sinh thường được nghỉ ngơi tại nhà, tránh làm việc nặng và giữ ấm cơ thể, tránh ăn các thức ăn có tính nóng hoặc lạnh để bảo vệ cơ thể. Sau khi sinh gia đình thường tổ chức lễ cúng và buộc chỉ cổ tay để cầu mong may mắn, mạnh khỏe, bình ăn và mong sự bảo vệ của  các thần linh.

  1. Phong tục đi tu:

Từ “ buột” trong ngôn  ngữ Bali gọi là “cắt tóc đi tu” có nghĩa là cắt đứt liên lạc với gia đình. Việc tu thành chú tiểu từ độ tuổi 8-19 tuổi, còn muốn tu thành nhà sư thì người tu phải từ 20 tuổi trở lên. Việc tu này  được hai việc:

+ Việc thứ nhất là được phước: phước ở việc tu này là sẽ giúp cho bố mẹ không bị đày xuống địa ngục và xem như là việc tu này được học viết, đọc thêm hiểu biết, có đạo lí rồi thì truyền đạt lại cho bố mẹ, anh em và người đi tu trở thành người có nhận thức, có hiểu biết có nghề để tự nuôi sống bản thân được .

+ Việc thứ hai đó là vì từ ngày xưa là không có trường học để con cháu đi học để tìm hiểu về kiến thức và dạy dỗ thành người tốt chỉ có ở trong chùa, chùa được xem như là trường học nội trú, người xưa thích xây dựng chùa để cho con cháu được đi học và giáo viên là sư trụ trì chùa đó, người xưa ưa chuộng cho con đi tu mà việc đi tu có 2 bậc đó là : tu thành chú tiểu và tu thành nhà sư. Dân tộc Phuôn cũng là một trong những dân tộc có phong tục đi tu và người dân Phuôn cũng có sự kính trọng nhà sư từ ngày xưa giống như các dân tộc khác, trước đây người dân Phuôn tin rằng việc được tu là việc học tìm kiếm kiến thức vì chùa là trường học , là nơi học hỏi kiến thức, người mà trải qua việc tu thì người đó là người hạnh phúc, là người có nhận thức, hiểu biết trong cuộc sống, có đạo lí. Đi tu của dân tộc Phuôn cũng có rất nhiều kiểu như: tu thành chú tiểu, tu thành nhà sư, tu khi có người thân mất….. Trong phạm vi bài viết này sẽ giới thiệu hai hình thức tu đó là tu thành chú tiểu và tu thành nhà sư. Cụ thể như sau:

  • Tu thành chú tiểu

   Tu thành chú tiểu là dành cho con trai từ 9-10 tuổi trở lên cho đến 20 tuổi, việc tu thành chú tiểu cũng cần phải chọn ngày lành tháng tốt tránh các ngày xấu. Việc tu thành chú tiểu cần phải có người thân (là người già) chịu trách nhiệm về việc nhập tu, trước khi nhập tu người đại diện phải được sự cho phép của bố mẹ ruột của người sẽ đi tu, khi được sự đồng ý của bố mẹ rồi, người đại diện trong gia đình phải chuẩn bị một số đồ như:

  • Áo cà sa: 1 bộ
  • “phạ năng ta non”

    Vào ngày xuống tóc đi tu, người đại diện trong họ sẽ đưa hoa, nến 1 cặp, hoa 10 bông, nến 5 cặp, 1 bạt ( khoảng 732 đồng), 1 tấm vải ( dùng để gói đồ để chuẩn bị đưa đi tu) đưa đến lạy nhà sư người trụ trì chùa để xin phép đi tu, khi nhà sư đồng ý rồi sẽ chọn thời gian để nhập tu ( vào buổi sáng hoặc buổi trưa). Sau đó người sẽ đi tu cũng đến chùa để nhà sư làm lễ xuống tóc, trước khi nhà sư cạo tóc người mẹ cần phải cắt 1 ít trước, nếu không còn mẹ thì chị sẽ thay mẹ để xin sự tha thứ từ mẹ, sau đó nhà sư mới cạo tóc và cạo lông mày.

    Đến thời gian nhập tu người đại diện trong họ và người sẽ tu sẽ nâng 10 bông hoa, nến 5 cặp để xin lỗi sư cụ người làm nghi lễ cạo tóc, sau khi tạ lỗi xong, người đi tu sẽ ngồi xổm nâng áo cà sa ở cánh tay, chắp tay cầm 10 bông hoa, 5 cặp nến nâng lên ngang mặt rồi từ từ đi cúi lưng ( ngồi xổm rồi bước) đến gặp sư cụ để nhận sự răn dạy, trước khi nhận lời răn dạy từ sư cụ thì người nhập tu phải thay đồ của chú tiểu rồi mới nhận lời răn dạy của sư cụ. Đến đây được xem như là hoàn thành nghi lễ. Người trở thành chú tiểu phải nhớ 10 điểu răn của Phật và thực hiện trong cuộc sống hàng ngày.

                                                                                (còn nữa)

Việt Nam và Lào tuy hai quốc gia có nền văn hóa, ngôn ngữ khác nhau nhưng đều là những nước nằm trong khu vực Đông Nam Á có chung biên giới. Nghiên cứu ngôn ngữ Việt Nam - Lào đặt trong sự so sánh, đối chiếu giúp chúng tôi tìm ra những điểm giống và khác biệt giữa hai ngôn ngữ để định hướng, tìm ra phương pháp dạy phù hợp cho lưu học sinh Lào đang học tiếng Việt. 

            Về nguồn gốc ngôn ngữ Việt - Lào, mặc dù từ trước đến nay nhiều  nhà nghiên cứu tìm hiểu nguồn gốc của hai ngôn ngữ này nhưng ở khía cạnh tách biệt, chưa có một ai đặt chúng trong mối quan hệ so sánh đối chiếu. Từ những thành tựu nghiên cứu của người đi trước chúng tôi nhận thấy quan điểm nguồn gốc tiếng Lào có sự thống nhất. Tiếng Lào là ngôn ngữ thuộc tiểu nhóm Tây Nam, nhóm Tày - Thái, họ ngôn ngữ Thái, là ngôn ngữ chính thức và ngôn ngữ giao tiếp giữa các tộc người của Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào. Tiếng Lào còn được phân bố ở đông bắc Thái Lan. Tiếng Lào phân thành hàng chục phương ngữ và thổ ngữ, giữa chúng khác nhau không lớn về ngữ âm và một phần về từ vựng. Ở Lào có ba nhóm phương ngữ chính: nhóm Bắc, nhóm Trung và nhóm Nam. Phương ngữ Viêng Chăn là cơ sở hình thành ngôn ngữ văn học Lào. 

Tuy nhiên, so với tiếng Lào, nguồn gốc tiếng Việt có nhiều ý kiến khác nhau  hơn nhưng tựu trung lại có ba ý kiến được nhiều người quan tâm.

 Ý kiến thứ nhất xếp tiếng Việt cùng nguồn gốc với các ngôn ngữ Đông Nam Á -Tiếng Việt thuộc họ Nam Đảo. Với cách hiểu đó có nghĩa là các ngôn ngữ Môn- Khmer, ngôn ngữ Nam Đảo, ngôn ngữ Thái là cùng một họ. Theo ý kiến này suy ra tiếng Lào và tiếng Việt có chung nguồn gốc. Nhưng thực tế vùng Đông Nam Á là vùng địa lí rộng lớn, ở đó không chỉ có một họ ngôn ngữ mà có nhiều họ ngôn ngữ khác nhau, đây là địa bàn ngôn ngữ khá đa dạng. 

Ý kiến thứ hai xếp tiếng Việt vào họ ngôn ngữ Thái. Những học giả xếp tiếng Việt vào họ Thái như K. Himly, H. Maspero  đã  đưa ra các lập luận khá chặt chẽ, tỉ mỉ về sự tương đồng về vốn từ, hiện tượng ngữ pháp và ngữ âm của tiếng Việt với các ngôn ngữ thuộc họ Thái. Xét về từ vựng, lớp từ cơ bản trong tiếng Việt có sự tương ứng với các ngôn ngữ thuộc họ Thái.  Bên cạnh đó bằng những dẫn chứng cụ thể, H. Maspero  đã phân tích cấu tạo từ  và cho rằng việc dùng các tiền tố ở tiếng Việt tiêu biểu  rõ rệt ở họ Thái. Đối với ông, xét ở phương diện ngữ pháp, tiếng Việt nghiêng hẳn về phía  họ ngôn ngữ Thái. Ngoài ra, để khẳng định điều ông còn  đưa ra bằng chứng về sự xuất hiện thanh điệu của tiếng Việt với các ngôn ngữ họ Thái. Nếu theo ý kiến này, tiếng Lào và tiếng Việt cũng có chung nguồn gốc ngôn ngữ (họ Thái).         Chúng tôi đưa ra những ý kiến đó để thấy rằng dù là hai ngôn ngữ khác nhau nhưng tiếng Lào và tiếng Việt có rất nhiều điểm tương đồng khiến cho  nhiều  học giả đã kết luận chúng là những ngôn ngữ có cùng nguồn gốc. Sau một thời gian dài chấp nhận kết luận của H. Maspero, vào năm 1953 nhà bác học A.G. Haudricourt đã phản bác ý kiến trên và khẳng định tiếng Việt thuộc họ Nam Á, nhánh Môn – Khmer, chi Việt Mường. Ông đã đưa ra những dẫn chứng thuyết phục, hợp lí, chính xác khách quan. Một số từ tiếng Việt giống tiếng Lào và tiếng Siam thuộc họ ngôn ngữ Thái được ông chứng minh do sự tiếp xúc vay mượn về ngôn ngữ. Như vậy, từ rất xưa người Việt và người Lào cũng đã có sự tiếp xúc về ngôn ngữ.  Bên cạnh vấn đề từ vựng  thì  thanh điệu cũng được A. G. Haudricouurt  làm rõ. Mặc dù, thanh điệu trong tiếng Việt giống các ngôn ngữ thuộc họ Thái nhưng không thể ngăn cản tiếng Việt có nguồn gốc từ Môn – Khmer. Từ cách giải thích logic, khoa học của A.G. Haudricouurt chứng tỏ hệ thống thanh điệu xuất hiện trong tiếng Việt hiện đại chứ không phải có mặt ngay từ thời tiền ngôn ngữ.

Việc giải thích thuyết phục nguồn gốc thanh điệu là một trong số căn cứ khẳng định tiếng Việt không có nguồn gốc từ họ ngôn ngữ Thái mà có nguồn gốc từ Môn Khme . Điều đó chứng tỏ tiếng Việt và tiếng Lào không có mối quan hệ họ hàng thân thuộc. Sự giống nhau giữa tiếng Việt và tiếng Lào là nghiêng về khả năng vay mượn và tiếp xúc.

                                                            TÀI LIỆU THAM KHẢO

    1. Mai Ngọc Chừ, (2002) Tạp chí Ngôn ngữ số 5 Dạy tiếng Việt với tư cách một ngoại ngữ”.

   2. Phạm Đức Dương (1998), Ngôn ngữ và văn hoá Lào trong bối cảnh Đông Nam Á, Nxb Chính trị Quốc gia.

 



Copyright © 2025 Copyright Khoa Tiếng Việt - Trường Đại học Hà Tĩnh Rights Reserved.