Tính chất “cách mạng thi ca” của Thơ mới trước hết là ở cái nhìn thế giới. Những quan niệm tân kì về con người, không gian, thời gian là cơ sở của một triết học văn hoá cho cái nhìn nghệ thuật của Thơ mới. Đây là điểm quán xuyến, là tính chỉnh thể, nét khu biệt nó với những dòng thơ tồn tại cùng, trước hoặc sau nó. Khác với thơ ca cổ điển chủ yếu nhìn cuộc đời qua lăng kính của những ước lệ, tượng trưng, Thơ mới nhìn đời bằng lăng kính của cá nhân. Đó là một sự giao tiếp trực tiếp giữa nhà thơ với cuộc đời. Do đó nhà thơ có dịp biểu hiện cách nhìn hồn nhiên, trẻ thơ của mình. Có bao nhiêu nhà thơ là có bấy nhiêu cách nhìn. Trong dàn hợp xướng của Thơ mới nếu tư duy thơ Hàn Mạc Tử là sự kết hợp của tính trữ tình, tư duy tôn giáo, yếu tố cá nhân hiện đại, nếu Nguyễn Bính nhìn qua chuẩn thẩm mĩ truyền thống, nếu Huy Cận khắc khoải trước một không gian toàn khối mang tính vũ trụ thì ở Xuân Diệu nổi lên cái nhìn thời gian. Nói cách khác Xuân Diệu nhìn đời bằng con mắt thời gian. Đây là điểm then chốt chi phối những ứng xử trong đời và trong thơ ông. Và xét cho cùng mọi cái mới trong thơ Xuân Diệu có lẽ được bắt nguồn từ ý thức thời gian nói trên.
Nhìn một cách khách quan, không phải đến Xuân Diệu thơ Việt Nam mới nói đến thời gian. Từ xưa các thi nhân đã không ít lần than thở về nỗi đời quá ngắn “ bóng bạch câu lướt qua cửa phù sinh” khiến cho tóc xanh chẳng mấy chốc đã hoá bạc “sáng mới xanh tơ chiều đã tuyết”. Nguyễn Công Trứ thấy: “ Nhân sinh ba vạn sáu ngàn ngày. Vạn sáu chơi nhăng đã hết rồi”. Nhưng phải đến Xuân Diệu- một người với quan niệm sống rất “tốc độ” của mình- thời gian mới thực sự trở thành “nỗi ám ảnh” (Đỗ Lai Thuý), là “kẻ thù đáng gườm nhất” (Nguyễn Đăng Mạnh), là “đại lượng tiêu cực, thù địch với hạnh phúc, tuổi xuân” (Trần Đình Sử). Có thể nói chất Xuân Diệu, phong cách thơ ông chính là ở cái nhìn thời gian này.
Dù lo sợ các thi nhân xưa vẫn nhìn thời gian bằng một con mắt, một tâm thế bình tĩnh bởi thời gian với họ là tuần hoàn, con người với trời đất là một nhất thể. Xuân Diệu thì khác, ông luôn nhìn thấy tính lưỡng trị của thời gian: một mặt nó đem tuổi trẻ, tình yêu đến mặt khác nó cũng mang lại bao sự héo úa, phôi pha:
Ngọn gió thời gian không ngớt thổi
Giờ tàn như những cánh hoa rơi
(Giờ tàn)
Thời gian với Xuân Diệu là thời gian tuyến tính, một đi không trở lại bao giờ. Thước đo thời gian là tuổi trẻ mà “tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại” thì làm sao có được xuân tuần hoàn. Vô cùng nhạy cảm trước sự đổi thay của cuộc đời, Xuân Diệu luôn nhìn thấy sự đối lập nghiệt ngã giữa thời gian vô tận của vũ trụ với thời gian hữu hạn của kiếp người. Và thi nhân không thể điềm nhiên, dửng dưng nhìn cái cảnh xuân tới, xuân qua, xuân hết được.
Xuân Diệu không hiểu do trời phú cho một cảm quan đặc biệt hay một “ám ảnh thơ ấu” nào, ông hơn các thi sỹ khác là đã ý thức được sâu sắc sự mất mát của thời gian:
Thong thả chiều vàng thong thả lại
Rồi đi … đêm xám tới dần dần
Cứ thế mà bay cho đến hết
Những ngày, những tháng, những mùa xuân.
(Giờ tàn)
Mất thời gian là mất tất cả, cả những cái tưởng như tuyệt đối: “Sự thật hôm nay không thật đến ngày mai”. Thời gian không chỉ làm thay đổi khách thể mà còn làm thay đổi chủ thể:
Cái bay không đợi cái trôi
Từ tôi – phút - ấy sang tôi – phút – này.
Vì vậy trong niềm say sưa bồng bột trước cuộc đời, tình yêu, sự hiện hữu của thời gian khiến nhà thơ chưa bao giờ bình thản. Đọc Thơ thơ và Gửi hương cho gió ta dễ dàng nhận ra một Xuân Diệu đang cô đơn chống trả lại sự tàn phá của thời gian.
Ứng xử thời gian trước hết với Xuân Diệu là lối sống “vội vàng”, “cuống quýt” đi đầu, đón trước thời gian. Từ đó những câu thơ của Xuân Diệu được viết ra giống như những hơi thở gấp gáp trong lồng ngực kiểu: “Đi mau, trốn nét, trốn hình. Trốn hơi, trốn tiếng, trốn mình, trốn nhau”, “Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”, “mau đi thôi! mùa chưa ngã chiều hôm,”, “Mau lên chứ! Vội vàng lên với chứ!”…. Đằng sau những từ: “vội vàng”, “giục dã”, “mau”, “gấp” ta hình dung ra điệu bộ cuống cuồng, sảng sốt của thi nhân cùng nỗi ám ảnh lo sợ sự “muộn màng”, “không kịp”, “lỡ làng”, “lỡ thì”…
Sống “vội vàng” chưa đủ mà phải biết “sống toàn tâm, toàn ý, toàn hồn. Sống toàn thân và thức nhọn mọi giác quan” nghĩa là đưa hết cái nội lực của lòng mình ra để sống, để cảm nhận được ý nghĩa tươi đẹp của cuộc đời. Đọc thơ Xuân Diệu người đọc dễ dàng nhận thấy thơ ông đầy những động tác: ôm, riết, quấn, cắn, ăn, uống, hút say, no nê, đã đầy:
Ta ôm choàng, ôm riết bánh thần tiên
Ta ôm bó cánh tay ta làm rắn
Làm dây da quấn quýt cả mình xuân
Không muốn đi ở mãi mãi vườn trần
Chân hoá rễ để hút màu dưới đất
(Thanh niên)
Hay:
Ta bám vào thịt da của đời
Ngoạm sự sống để làm êm đói khát
Muôn nỗi ấm và muôn nỗi mát
Điều ta ăn nhấm nháp rất ngon lành
Ngực thở trời mình hút nắng trời xanh
(Thanh niên)
Tôi đưa răng bấu mặt trời
Kẻ đựng trái tim trìu máu đất
Hai tay chín móng bám vào đời
Kẻ uống tình yêu dập cả môi
(Hư vô)
Đằng sau những câu thơ rất Xuân Diệu ấy ta nhận ra được một niềm ham mê sự sống đến cuồng nhiệt, một sự gắn bó máu thịt của nhà thơ với cuộc đời.
Xuân Diệu còn chiến thắng thời gian bằng việc biết sống với giây phút hiện tại. Trong thơ Xuân Diệu cũng có lúc nói đến cái “ngày xưa” hay cái “ngày mai”. Tuy nhiên những câu thơ như thế chiếm một tỉ lệ quá ít trong toàn bộ sáng tác của ông và nó cũng không tiêu biểu cho cảm quan về vũ trụ, triết lí nhân sinh và tư tưởng thẩm mĩ của nhà thơ. Chủ ý của ông trước sau vẫn thiên về khẳng định ý nghĩa của cuộc sống ngay ở trục thời gian hiện tại. Bởi hiện tại chính là sự cô đặc của thời gian. Biểu dương hiện tại, biết dồn nén thời gian sống vào hiện tại, thi nhân viết: “Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối. Còn hơn buồn le lói đến trăm năm”. Khẳng định ý nghĩa của cuộc sống ngay ở trục thời gian hiện tại là một nét độc đáo trong thi pháp thời gian Xuân Diệu – một hiện tượng gần như ngoại lệ - mà nếu chúng ta đồng nhất thi pháp tác giả trào lưu thì không thể giải thích được.
Con người đam mê cuộc sống trần thế ấy không thể từ bỏ hiện tại để hành hương đơn độc về quá khứ như Chế Lan Viên: “ Đường về thu trước xa xa lắm. Mà kẻ đi về chỉ một tôi” (Thu). Ông thực tiễn trong thuyết hiện sinh của mình:”.“Kể chi chuyện trước với ngày sau” (Tình trai) hay “Cần chi biết ngày mai hay bữa trước? Gần hôm nay, thì yêu dấu là nên” (Mời yêu). Khẳng định thực tại, Xuân Diệu không chỉ thờ ơ với quá khứ mà còn rất hoài nghi ở tương lai:
Gấp em đi, em rất sợ ngày mai;
Đời trôi chảy, lòng ta không vĩnh viễn”. (Giục dã)
Nhà thơ sợ cái “ngày mai” vì ngày mai là ngày của “độ phai tàn sắp sửa”. Xuân Diệu say sưa với hiện tại, ông đếm từng giây, từng phút của hiện tại, vồ vập nó, hưởng thụ nó: “Em vui đi, răng nỡ ánh trăng rằm; Anh hút nhuỵ của mỗi giờ tình tự”.
Ý thức thời gian nói trên đã quyết đinh chỗ đứng và điểm nhìn của nhà thơ trước cuộc đời.
Chủ nghĩa lãng mạn nói chung, thơ lãng mạn nói riêng luôn đi tìm sự đối lập giữa thực tại và lí tưởng với ý thức phủ nhận thực tại. Bởi vậy trong Thơ mới, hầu hết các nhà thơ đều tìm cho mình một con đường để trốn thực tại. Thế Lữ hoặc nuôi giấc mộng lên tiên hoặc làm con hổ nhớ về “thủa tung hoành hống hách những ngày xưa” (Nhớ rừng). Vũ Đình Liên khắc khoải một nỗi niềm “năm nay hoa đào nở. không thấy ông Đồ xưa” (ông Đồ). Chế Lan Viên với một tâm trạng thường trực: “Trời hỡi trời hôm nay ta chán hết. Những sắc màu hình ảnh của trần gian”, nhà thơ chỉ có một nhu cầu: “Hãy cho tôi một tinh cầu lạnh giá. Một vì sao trơ trọi cuối trời xa. Để nơi ấy tháng ngày tôi lẫn tránh. Những ưu phiền, đau khổ với buồn lo”. Chỉ có Xuân Diệu là vẫn bám lấy cuộc đời để tận hưởng. Ông là “người của đời, một người ở giữa loài người. Lầu thơ của ông được xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian” (Thế Lữ). Thơ Xuân Diệu cắm rễ giữa cuộc đời, hồn thơ của ông nảy nở sum suê nhờ màu mỡ hút từ mạch đất. Đúng như Hoài Thanh nhân xét: “Xuân Diệu đốt bồng lai tiên cảnh xua ai nấy về hạ giới”.
Có thể nói qua cái nhìn về thời gian của mình, Xuân Diệu luôn thể hiện một cái tôi đầy cá tính, một cái tôi độc đáo, không lặp lại bất cứ gương mặt nào. Tìm hiểu cái nhìn về thời gian trong thơ Xuân Diệu trước cách mạng, người đọc có được một phương diện rất cơ bản để nhận diện hình tượng nghệ thuật của tác giả trong tác phẩm và đặc điểm phong cách nghệ thuật của nhà thơ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sinh hoạt chuyên môn là một hoạt động nhằm bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, năng lực sư phạm cho giáo viên, góp phần tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình giảng dạy, tạo điều kiện cho giáo viên trong tổ học tập lẫn nhau, trao đổi kinh nghiệm về những cách làm hay, sáng tạo, hiệu quả nhằm góp phần đẩy mạnh phong trào thi đua “Dạy tốt - Học tốt”, đồng thời qua đó tạo được sự thống nhất trong thực hiện quy chế chuyên môn. Thực tế trong nhà trường hiện nay cho thấy có tổ chuyên môn hoạt động rất mạnh nhưng vẫn còn tổ chuyên môn hoạt động một cách thụ động, ỷ lại với những tồn tại như:
Vậy làm thế nào để buổi sinh hoạt chuyên môn thực sự có chất lượng, thu hút được giáo viên tham gia hưởng ứng tích cực, thảo luận sôi nổi vào những vấn đề trọng tâm, góp phần nâng cao chất lượng dạy học ,tôi thiết nghĩ chúng ta cần “Đổi mới sinh hoạt tổ chuyên môn theo hướng nghiên cứu bài học”.
Sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học là hoạt động GV cùng nhau học tập từ thực tế việc học của HS. Ở đó GV cùng nhau thiết kế kế hoạch học, cùng dự giờ, quan sát, suy ngẫm và chia sẻ (tập trung chủ yếu vào việc học của HS). Đồng thời đưa ra những nhận xét về sự tác động của lời giảng, các câu hỏi, các nhiệm vụ học tập mà GV đưa ra,…có ảnh hưởng đến việc học của HS. Trên cơ sở đó, GV được chia sẻ, học tập lẫn nhau, rút kinh nghiệm và điều chỉnh nội dung, phương pháp dạy học vào bài học hằng ngày một các có hiệu quả.
2. Các bước tiến hành sinh hoạt chuyên môn dựa trên NCBH
* Bước 1: Xác định mục tiêu, xây dựng kế hoạch bài học nghiên cứu
a) Xác định mục tiêu:
Cần xác định mục tiêu kiến thức và kỹ năng mà học sinh cần đạt được (theo chuẩn kiến thức, kỹ năng ở từng môn học, đặc biệt cần chú ý xây dựng mục tiêu về thái độ của học sinh), đảm bảo phù hợp với trình độ và lứa tuổi của HS khi chọn bài học nghiên cứu.
b) Xây dựng kế hoạch bài học nghiên cứu (Thiết kế bài dạy minh họa):
- Bài dạy minh họa không phải do một giáo viên thiết kế mà do giáo viên trong tổ cùng thiết kế, thảo luận, thống nhất lựa chọn phương án tối ưu nhất.
- Việc thiết kế bài dạy không nhất thiết phụ thuộc máy móc vào quy trình bước dạy theo sách giáo khoa hoặc sách giáo viên mà dựa vào mục tiêu bài học đã đề ra để thiết kế cho phù hợp.
- GV trong tổ thảo luận nội dung bài học, các phương pháp, phương tiện dạy học đạt hiệu quả cao, cách tổ chức dạy học, cách rèn kỹ năng, hướng dẫn học sinh cách vận dụng kiến thức đã học để giải quyết tình huống thực tiễn...
- Dự kiến những thuận lợi, khó khăn của HS khi học tập và các tình huống xảy ra cùng với cách xử lý tình huống (nếu có) …
Sau khi kết thúc cuộc thảo luận, GV thực hiện dạy minh họa sẽ nghiên cứu, phát triển … các ý kiến góp ý của tổ CM (nhóm). GV thực hiện hoàn thiện giáo án dạy minh họa và chuẩn bị điều kiện tốt nhất cho tiết dạy.
* Bước 2. Tiến hành dạy bài học (bài giảng minh họa) và dự giờ
- Sau khi hoàn thành xây dựng kế hoạch dạy học chi tiết, GV sẽ dạy minh hoạ bài học nghiên cứu ở một lớp đã chuẩn bị trước.
+ Chuẩn bị lớp dạy minh hoạ, bố trí lớp có đủ chỗ ngồi quan sát thuận lợi cho người dự.
+ Điều chỉnh số lượng người dự ở mức vừa phải, không quá đông.
+ Việc dự giờ cần đảm bảo không ảnh hưởng đến việc học của học sinh, không gây khó khăn cho người dạy minh hoạ.
- GV dạy và dự cần quan sát việc học của tất cả học sinh, cách làm việc nhóm, thái độ tình cảm của học sinh... Khi dự giờ GV tập trung vào việc học của học sinh, theo dõi nét mặt, hành vi, sự quan tâm đến bài học của học sinh đặc biệt cần ghi chép cụ thể thái độ của học sinh khi tham gia trả lời các câu hỏi của GV, thông qua đó tìm mối liên hệ giữa việc học của HS với tác động của giáo viên về cách sử dụng các phương pháp dạy học, cách tổ chức lớp học.
- Điều chỉnh thói quen đánh giá giờ dạy qua hoạt động của giáo viên, người dự cần
hiểu và thông cảm với khó khăn của người dạy, đặt mình vào vị trí của người dạy để phát hiện những khó khăn trong việc học tập của học sinh nhằm tìm cách giải quyết.
* Bước 3. Suy ngẫm, thảo luận về bài học nghiên cứu
- Giáo viên dạy minh họa chia sẻ về bài học: những ý tưởng mới; những thay đổi, điều chỉnh về nội dung; phương pháp dạy học; những điều hài lòng và chưa hài lòng trong quá trình dạy minh họa.
- Người dự suy ngẫm và chia sẻ các ý kiến của GV về bài học sau khi dự giờ:
- Người dự trao đổi, chia sẻ, lắng nghe mang tính xây dựng.
- Thảo luận xem HS học như thế nào? (mức độ tham gia, hứng thú và kết quả học tập của từng em).
- Cùng suy nghĩ: vì sao học sinh chưa tích cực tham gia vào hoạt động học, học chưa đạt kết quả... và đưa ra các biện pháp thay đổi cách dạy phù hợp.
- Mọi người phải lắng nghe, tôn trọng ý kiến của nhau khi thảo luận, không nên quan tâm đến các tiêu chuẩn truyền thống của một giờ dạy.
- Không nên phê phán đồng nghiệp.
- Không đánh giá xếp loại giờ dạy minh hoạ.
- Lấy hành vi học tập của HS làm trung tâm thảo luận.
- Tổ trưởng không nên áp đặt, tạo cơ hội cho GV trong tổ phát biểu, có sự dẫn dắt để GV trong tổ cùng thảo luận.
* Bước 4: Áp dụng cho thực tiễn dạy học hàng ngày
Thông qua tiết dạy minh họa, thông qua thảo luận tiết dạy của đồng nghiệp, giáo viên tự rút ra bài học kinh nghiệm cho bản thân, kiểm nghiệm những vấn đề đã được dự giờ và thảo luận, áp dụng vào bài giảng hàng ngày trên lớp
Trong buổi sinh hoạt chuyên môn, GV trong tổ tập trung phân tích hoạt động học tập của học sinh, tập trung phân tích các vấn đề liên quan đến việc phát triển năng lực của học sinh như: Học sinh học như thế nào ? Học sinh đang gặp khó khăn gì trong học tập ? Nội dung và phương pháp dạy có phù hợp, có gây hứng thú cho học sinh không ? Kết quả học tập của học sinh có được cải thiện không ? Giờ dạy đã phát triển năng lực chưa ? Cần điều chỉnh gì và điều chỉnh như thế nào ?... Mỗi thành viên đều đưa ra ý kiến của riêng mình, có rất nhiều ý kiến hay và xác thực cho từng hoạt động của bài học.
Trong quá trình thảo luận, không tập trung vào việc đánh giá giờ học, xếp loại GV mà nhằm khuyến khích GV tìm ra nguyên nhân tại sao HS chưa đạt kết quả như mong muốn và có biện pháp để nâng cao chất lượng dạy học, tạo cơ hội cho HS được tham gia vào quá trình học tập; giúp GV có khả năng chủ động điều chỉnh nội dung, phương pháp dạy sao cho phù hợp với từng đối tượng HS.
3. Các lợi ích có được khi tham gia SHCM theo NCBH
- Học cách quan sát tinh tế, nhạy cảm việc học của HS.
- Hiểu sâu, rộng hơn về HS và đồng nghiệp. Hình thành sự chấp nhận lẫn nhau giữa GV với GV và giữa GV với HS.
- Cùng nhau xây dựng và tạo nên văn hoá nhà trường.
- Tích luỹ kinh nghiệm, nâng cao năng lực chuyên môn và đổi mới PPDH, kĩ thuật dự giờ theo hướng dạy học tích cực, lấy việc học của HS làm trung tâm của GV khi tham gia SHCM theo NCBH.
4. Một số khó khăn cần khắc phục
* Về cơ sở vật chất.
- Lớp học hẹp khó bố trí chỗ ngồi cho GV đến dự. Vì vậy BGH cần tạo điều cho tiết dạy được thực hiện ở phòng bộ môn sẽ có không gian rộng, GV dự có thể ngồi ở 2 bên để quan sát hoạt động của HS rõ hơn.
*Về GV thực hiện dạy minh họa.
- GV chuẩn bị bài dạy mất nhiều thời gian nên không sẵn sàng hợp tác. Trong tiết dạy GV không thể quan sát hết thái độ, hành động, sai sót từng HS nên GV ngại dạy vì sợ sau mỗi tiết dạy bị tham gia góp ý, đánh giá sẽ hạ thấp uy tin bản thân. Nhiều GV hoài nghi về tác dụng sinh hoạt chuyên môn mới này.
* Về nhóm chuyên môn.
- Mất nhiều thời gian cho mỗi lần SHCM theo NCBH. Từ thời gian thảo luận xây dựng bài dạy đến khi rút kinh nghiệm đưa ra bài học (mỗi lần mất khoảng 3 đến 4 tiết)
- Nhiều GV có thái độ không hoà đồng, không bình đẳng, chưa sẵn sàng học hỏi và hợp tác mà lại là phê phán, đánh giá, làm mất đi tính nhân văn của SHCM theo NCBH.
- GV chưa thực sự hợp tác cùng nhau xây dựng kế hoạch bài học.
* Về học sinh.
- Số lượng HS trong lớp đông nên không thuận lợi cho việc học và dạy, theo dõi HS của GV dạy và dự.
- Chất lượng HS không đồng đều, ý thức học tập của học sinh chưa tốt…
III. Kết luận
Đổi mới trong sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học, không chỉ bảo đảm cho tất cả học sinh có cơ hội tham gia thực sự vào quá trình học tập, giáo viên có thể quan tâm đến khả năng học tập của từng học sinh, đặc biệt những học sinh có khó khăn về học tập mà còn tạo cơ hội cho tất cả giáo viên nâng cao năng lực chuyên môn, kỹ năng sư phạm và phát huy khả năng sáng tạo trong việc áp dụng các phương pháp, kỹ thuật dạy học thông qua việc dự giờ, trao đổi, thảo luận, chia sẻ sau khi dự giờ, từ đó nâng cao chất lượng dạy và học của nhà trường.
Từ xa xưa có câu chuyện kể lại rằng: Ở gia đình kia rất giàu có một người con trai bố mất từ khi anh ta còn bé chỉ còn lại mẹ. Mẹ đã chọn cho con trai một cô gái phù hợp về độ tuổi và môn đăng hô đối để lấy làm vợ. Hai vợ chồng lấy nhau đã nhiều năm nhưng vẫn chưa có con, người mẹ sợ không có người nối dõi nên đã cho con trai lấy vợ hai. Ở với nhau không lâu thi người vợ bé có thai. Phía vợ cả thấy vậy thì ghen ghét và sợ con của vợ bé sẽ chiếm hết tài sản nên cố gắng tìm cách giết con của vợ bé bằng cách nói với vợ bé: “Khi nào cô có thai thì cô phải nói với tôi ngay” vợ bé nhận lời. Lần mang thai đầu vợ bé nói với vợ cảvà bị vợ cả cho thuốc phá thai vào trong đồ ăn, lần thứ hai cũng giống như vậy, đến lần thứ ba vợ bé vẫn nói nhưng sọ không an toàn nên bỏ trốn đi đến sống ở ở nhà anh em. Khi vợ cả biết tin đi theo bắt uống thuốc phá thai nhưng lần này cả hai mẹ con bị chết. Trước khi chết vợ bé nói với vợ cả là: “ Cầu mong kiếp sau cho tôi sinh ra là quỷ để có thể ăn cô và con của cô” sau khi nói xong thi vợ bé mất. Sau đó vợ cả cũng bị chồng giết chết.
Sau này vợ bé đầu thai thành con Mèo còn vợ cả đầu thai thành con Gà mái ở trong cùng một nhà. Mèo đã ăn trứng gà hai lần, lần thứ ba thì mèo ăn cả trứng gà cả gà mái. Gà mái trước khi chết lại quay ra thù oán lẫn nhau. Kiếp sau nữa vợ cả ( gà mái) đầu thai thành con Hổ, Mèo (vợ bé) đầu thai thành con Nai. Hổ lại đến ăn con của Nai hai lần lần thứ ba ăn cả mẹ. Kiếp sau nữa Nai đầu thai thành quỷ và Hổ được đầu thai thành một cô gái sống ởthành phố Savatthi, lúc cô gái lớn lên và kết hôn và sinh con. Khi cô gái sinh con Quỷ Khini liền cải trang thành một cô gái đến xem khi có dịp sẽ trộm đứa bé để ăn, lần thứ hai cũng vậy, lần thứ ba thì hai vợ chồng cô bế con chạy trốn hỏi nhà, quỷ Khini cũng chạy theo đuổi kịp. Hai vợ chồng và con liền chạy vào nương nhờ Đức Phật Thích Ca ở chùa Phasetavanmahavihan.
Trong khi Đức Phật đang thuyết giáo ở phòngthì nhìn thấy hai vợ chồng ôm con chỵ vào nương nhờ Đức Phật còn Quỷ thì đứng ở ngoài cửa. Đức Phật mới cho gọi Quỷ Khini vào và dạy bảo không nên hận thù, thù oán lẫn nhau bởi vì nếu cứ thù oán nhau thì sẽ thù oán nhau suốt kiếp này đến kiếp khác mèo thì thù hằn với chuột, rắn với chồn, quạ với chim cú…. Cứ thùa oán lẫn nhau không khi nào kết thúc. Sau khi giảng dạy xong thì Đức Phật ra lệnh cho cô vợ đón nhận quỷ Khini. Bây giờ cho đi ở đâu cũng không thoải mái, không hạnh phúc, Ở trong cối, trong cái lu, phoi, cổng nhà...đều không ở được nên mới cho ra ở ngoài cánh đồng nên mới cùng nhau gọi tên là Thần Nông bảo vệ lúa và hoa màu một cách tốt nhất.
Còn người vợ cũng chăm sóc rất tốt,quỷ Khini là người biết khi nào mưa, năm nào mưa, tốt hay không tốt thì quỷ Khi ni nói với cô vợ biết, cô này làm ruộng theo thời tiết nên mùa màng bội thu mới trở nên giàu có, lúa gạo, tiền vàng nhiều đến mức người dân trong làng cũng phải nghi ngờ, mọi người mới rủ nhau đến hỏi xem sự thật là như thế nào. Sau khi nghe xong thì ai nấy đều kính trọng Quỷ Khini cùng với đó là đưa thực phẩm rất nhiều dâng lên ngày 8 lần. Về sau thành phong tục tập quán kế thừa từ xưa tới nay và đổi tên dâng Quỷ Khini thành Thần Nông.
Khi trồng lúa thì từ 3-9 cây là tốt nhất. Hằng năm trước khi băt tay vào làm họ sẽ lấy ngày thứ năm vào khoảng giữa tháng sáu là ngày làm lễ hạ điền thì chủ ruộng chuẩn bị đồ ăn thức uống, tiền, vàng dâng lên Thần Nông. Cầu xin Thần Nông sẽ báo mộng cho khi nào trời mưa, khi nào tốt,khi nào không tốt, xin cho trâu bò luôn mạnh khỏe vàđừng cho cua, các loại côn trùng đến ăn lúa mạ, phá hại ruộng lúa.
Ngày 14/10 các tin chủ sẽ chuẩn bị đồ cúng dường như: bánh ngọt, trái cây, các món canh, xào, chiên… thuốc lá và đến 15/10 các tín chủ cùng nhau tổ chức “Xay bat” ( lễ dâng cơm). Khoảng 9-10h sáng nhà Sư sẽ đánh chiêng tất cả các tin chủ cùng lấy đồ mỗi thứ môt ít để dâng lên nhà sư như: bánh ngọt, thức ăn, chuối, mía, hoa quả, cơm, muối, ớt, dưa chuột… Trước khi cúng dường cho nhà sư họ sẽ viết tên để chỗ dâng cơm để cho nhà sư bốc thăm. Khi trúng tên người nào thì người đó lấy đồ của mình đi lên dâng cho nhà sư bốc thăm được tên mình rồi nhận lời chúc tới các linh hồn là anh em họ hàng những người đã mất.
Sau khi xong lễ ở chùa rồi thì bốc thăm lấy gạo để cúng lên nhà chùa. Sau đó về cúng Thần Nông ở ruộng nương nhà mình. Họ tin rằng nếu làm cho Thần Nông vừa ý thì Thần Nông sẽ giúp mình trông coi từ lúa má ở ruộng luôn tốt tươi, màu mỡ cho đến việc không cho các con vật như chim, chuột, cua đồng đến phá hoại cây lúa ở ruộng. Còn một phần nữa sẽ chia đi bố thí ở các hàng rào ở chùa, cành cây cạnh chùa để cho những người đã mất không có người thân làm lễ cho cũng được ăn.
Việc làm phước vào dịp rằm tháng Mười này đó là làm phúc để tưởng nhớ tới người thân, anh em, bà con, họ hàng và để những thế hệ mai sau bày tỏ sự quan tâm, hành động cho đúng với người thân đã mất của mình. Bởi vì khi người thân của mình mất đi họ không thể đưa tiền, vàng, của cải đi theo chỉ đưa mỗi hình hài họ đi thôi không được làm ruộng, buôn bán, làm thuê, chỉ nương tựa dựa vào chúng ta những người đang sống. Nếu chúng ta chủ quan không làm phúc gửi đi thì người thân của mình sẽ bị đói, gầy yếu. Khi nói đến việc tổ chức lễ hội rằm tháng Mười là để tưởng nhớ tới những người đã mất để cho thế hệ mai sau giữ gìn và kế thừa.
Cứ mỗi dịp tết đến xuân về, phát huy tinh thần tương thân tương ái và đặc biệt thể hiện ý nghĩa sâu sắc của tết Nguyên Đán Việt Nam là lan toả yêu thương, sẻ chia, gắn kết, chiều ngày 28/1/2022 các GV khoa TV đã tổ chức trao quà cho các em LHS Lào mới đến học tếng Việt ở Việt Nam.
Các giáo viên đã tặng những món quà đậm hương vị của Tết cồ truyền Việt Nam như bánh chưng, giò luạ, bánh kẹo….cho các em LHS Lào K14. Đây cũng là cơ hội để các giáo viên được sẻ chia tấm lòng, thể hiện tình đoàn kết, gắn bó, yêu thương tới các em Lưu học sinh Lào. Mong rằng, những món quà nhỏ nhưng ý nghĩa này sẽ phần nào giúp các em học sinh đón Tết Nhâm Dần với người Việt Nam ấm áp, vui vẻ hơn, nhanh hoà nhập với môi trường hoàn cảnh ở Việt Nam và là động lực giúp các em học tập ngày càng tiến bộ hơn.
Bunpimay là một trong những lễ hội lớn nhất ở Lào, thường được tổ chức vào tháng 4 hàng năm. Trong dịp này có rất nhiều phong tục của riêng mình như: té nước, buộc chỉ cổ tay, xây tháp cát, phóng sinh, làm lễ xin bố mẹ tha thứ…..
Việc xin tha thứ được xem như là một nét văn hóa của người Lào theo đạo Phật, khi nhận thức được tội lỗi, hành động của bản thân có thể tự nguyện đi xin sự tha thứ mộ cách hợp tình hợp lý. Lý do quan trọng trong lễ xin tha thứ này cũng giống như việc giúp ta thấy được những điều không tốt hoặc những hiểm họa, thù oán nhau. Việc xin tha thứ cũng là để tránh thành kiến, hay những suy nghĩ ko tốt về nhau vì khi ghét nhau cũng ko có lợi ích gì, người làm sai sẽ nhận thức được và chịu trách nhiệm về cuộc sống của mình thì mới có sự bình yên, hạnh phúc.