Câu đố là một thể loại văn học dân gian, gồm hai bộ phận: bộ phận lời đố và bộ phận lời giải (vật đố); lời đố bằng văn vần nhằm miêu tả vật đố một cách xác thực, hợp lẽ nhưng lại làm cho lạ hoá để khó đoán giải. Lời giải nêu tên vật đố, là những sự vật hành động phổ biến mà ai cũng từng hay, từng biết”(Ninh Viết Giao).
Đối với loài vật, sự chú ý của người dân phụ thuộc vào sự vật xa hay gần, ngoài hay trong tầm tay chế ngự của con người. Câu đố thường chỉ chú trọng những con vật ở gần, hoặc bên cạnh người, hay ở xa nhà nhưng trong tầm tay chế ngự. Các con vật trong nhà có thể là gia súc, gia cầm, những chó, mèo, trâu, bò, gà lợn…Lối nhìn loài vật thông qua cách nhân hoá, so sánh, ẩn dụ có khi là chơi chữ, nói lái, dùng từ đồng âm, đồng nghĩa…
Và dưới đây là những đặc điểm của con vật thường được miêu tả bằng cách so sánh liên tưởng trong quá trình sáng tạo câu đố của người Việt.
1. So sánh dựa trên sự giống nhau về hình thức của con vật
Đặc điểm hình thức bên ngoài được người ta so sánh liên tưởng nhiều nhất trong khi miêu tả về con vật.
Ví dụ: So sánh toàn bộ cơ thể con vật
Con gì trông tựa con voi
Nhưng ngà mọc ngược mà vòi lại không
(Con trâu)
Vừa bằng lá tre, le te dưới nước
(Con đỉa)
So sánh liên tưởng bộ phận cơ thể con vật:
Vừa bằng cái bát, san sát giữa đồng
(Vết chân trâu)
Một chổi mà quét hai hè
Quét đi quét lại những hai ba lần
(Đuôi trâu)
Con trâu, các bộ phận của con trâu, con đỉa ở đây được miêu tả hết sức sinh động và thú vị. Các sự vật được đem ra so sánh, liên tưởng là những vật quen thuộc hàng ngày, nhưng để tìm được đặc điểm chung giữa các yếu tố ấy mà liên tưởng, hẳn cần có sự quan sát tỉ mỉ và sự gắn bó mật thiết với các sự vật. Đặc biệt, khi so sánh từng bộ phận trên cơ thể con vật thì sẽ hấp dẫn và sống động hơn là khi so sánh toàn bộ cơ thể con vật.
Tám thằng dân khiêng cái quả
Hai ông xã xách hai cái kềm
Một lòng vì nước ngày đêm
Xây nhà dưới hố, bên trên dậu rào
(Con cua)
2. So sánh dựa trên sự giống nhau về kích cỡ của động vật
Đặc điểm kích cỡ cơ thể con vật cũng được so sánh theo hai cách: tất cả cơ thể con vật hoặc một bộ phận nhưng khác với đặc điểm hình thức ở chỗ, phần lớn người ta so sánh tổng thể cơ thể con vật nhiều hơn là từng bộ phận của chúng.
Vừa bằng quả mướp, ăn cướp cả làng
(Con chuột)
Vừa bằng hạt đỗ, ăn giỗ cả làng
(Con ruồi)
So sánh bộ phận cơ thể con vật
Chân to bằng cái cán thìa
Miệng chăm chỉ nói chuyện sớm khuya với trời
(Con gà)
3. So sánh đặc điểm cấu tạo và hoạt động của cơ thể động vật
Ở đặc điểm này, sự so sánh có thể dựa trên sự giống nhau về cấu tạo, hoạt động hoặc so sánh dựa trên sự đồng âm
Giúp người trải mấy ngàn thu
Sao người lại bảo ta ngu vô cùng
Sách ta luôn mang trong lòng
Sao người lại bảo dốt lạ lùng lắm thay.
(Con bò)
Ở đây người ta sử dụng từ đồng âm “sách”: sách có hai nghĩa, vừa là cuốn sách, vừa là một bộ phận trong cơ thể con bò.
Mắt tôi không khác ngọn đèn
Tối trời vẫn nhận bạn quen để chào
(Con chó)
Mắt chó rất sáng và tinh nhanh. Mắt chó được ví với ngọn đèn, đây là sự giống nhau về cấu tạo và hoạt động.
4. So sánh dựa trên sự giống nhau về màu sắc
Đặc điểm màu sắc của con vật thường được liên tưởng đến các loại trang phục của con người như quần xanh, áo đỏ, khăn trắng bận vai, mũ vàng, sắc vua ban…Ở đây, con vật được nhân hoá giống như con người vậy.
Mình xanh mặc áo chỉ vàng
Cà ruột tim tím cái gan hồng hồng
(Con cào cào)
Mặc áo xanh học mót
Nói mà chẳng hiểu đâu
(Con vẹt)
Màu xanh của con vẹt được ví với cái áo xanh rất đặc trưng của người nông dân
5. So sánh đặc điểm về tiếng kêu
Tiếng kêu của con vật thường được ví với các loại âm thanh như các loại nhạc cụ ngày xưa: cồng, kiểng, chuông, bạt. So sánh ở đây không phải là sự giống nhau về âm thanh mà là cùng có âm thanh.
Mẹ đi trước đánh cồng, đánh bạt
Con đi sau vừa hát, vừa reo
(Gà mẹ và đàn gà con)
Mình vàng thắt đai châu sa
Tiếng kêu rủ rỉ như là đàn tranh
Thân bé, cánh mỏng bay quanh
Hái hoa bắt nhuỵ, xây thành nuôi con
(Con ong)
6. So sánh đặc điểm về số lượng
Đặc điểm số lượng phần lớn dùng cho các loài vật sống theo đàn như: ong, kiến, vịt, bồ câu…có số lượng nhiều và thường được so sánh với con người.
Ví dụ: Lầu xây một cột, đôi tầng
Cửa trỏ vào mươi cái cân phân
Đôi ba chục thằng dân đi lui đi tới
Lầu nào vừa hẹp vừa cao
Khách ngoài đến trú xôn xao vui vầy
Lầu nào xấu xí, bầy hầy
Dân chính dân ngụ tẩy chay không về.
(Chim bồ câu)
7. So sánh đặc điểm về giống loài
Để nói về giống đực, giống cái của con vật, người ta thường hay liên tưởng tới giới tính của con người và nhân cách hoá con vật. Con vật trở thành thục nữ, gái chưa chồng, quân tử, chàng, thiếp….
Cô em là gái không chồng
Xây nhà bằng đất nằm trong một mình
Đêm ngày vò võ làm thinh
Biết ai là kẻ tơ tình với em.
(Con tò vò)
Lời đố thật vui tươi nhưng cũng khó đoán giải.
8. Mô tả dựa vào đặc điểm môi trường sống
Môi trường sống của con vật có thể là trên cạn, dưới nước, hay thậm chí ngay trên đầu người:
Nhà xây ở giữa rừng già
Sinh con đẻ cháu hằng hà nhiều thay
Thiên hạ bắt được giết ngay
Giết ngay thì chớ còn bảo: “Mày đàn ông”
(Con chấy)
Con chấy có môi trường sống là ngay trên đầu người. Đầu người lại có nhiều tóc nên được ví với rừng già. Một cách so sánh, liên tưởng thật độc đáo và thú vị.
9. Mô tả hay so sánh về cách thức di chuyển
Người ta sử dụng hình ảnh “đi mây về gió”. Vốn là cách đi lại của tiên giới, để nói về cách di chuyển của con chim, hay con vật nào đó di chuyển bằng cách bay.
Trên đây là những đặc điểm, thuộc tính của con vật được miêu tả bằng cách liên tưởng đến những đối tượng khác có chung đặc điểm ở một mặt nào đó. Hầu hết sự liên tưởng là ở các đặc điểm ngoại hình như hình thức, cấu tạo, kích cỡ, tên gọi, màu sắc. Điều này chứng tỏ người Việt có xu hướng miêu tả những đặc điểm bề ngoài của con vật với những gì mà người ta có thể quan sát được.
2. Về lĩnh vực văn học, sử học
Trước tác của Lê Tuấn hiện chỉ còn hai quyển “Yên thiều bút lục” (văn) và “Như thanh nhật ký” (sử - văn) viết khi ông đi sứ Nhà Thanh về. Ngoài ra, ông còn làm Phó Tổng tài Quốc sử quán, tham gia biên soạn bộ sử Đại Nam thực lục chính biên (Đệ tam kỷ - Quyển thủ), là bộ sử chính thống của Nhà Nguyễn.
Lê Tuấn thường sáng tác khi đi sứ do có thời gian và điều kiện nhàn rỗi hơn. Những trước tác về thơ văn của Lê Tuấn không nhiều, hơn nữa việc tìm lại những sáng tác thơ văn trong quá trình làm quan của ông vô cùng khó khăn. Sách Đại Nam nhất thống chí và Địa chí Khánh Hòa đều có nhắc đến sáng tác của Thượng thư Lê Tuấn nhưng không thấy chép nêu tên cụ thể là bài tên là gì? Nội dung ra sao? Chỉ biết rằng: “Những danh nhân quá bộ đến đây, có nhiều người dựng bia, đề thơ đề kỷ niệm danh thẳng như: Nguyên Hiệp biện lãnh Thượng thơ Phan Thanh Giản, Khánh Hòa Bố chánh Nguyễn Quỳnh, Thuận - Khánh Tuần phủ Nguyễn Thạnh, Bình Thuận Bố chánh Trần Điền, sung Điền Nông sứ Phan Trung, đều có lập bi ký; Hình bộ Thượng thư sung chính sử Lê Tuấn, Lễ bộ Tham tri Nguyễn Văn Tường, Khánh Hòa Đốc học Đinh Nho Quang đều có thơ đề vịnh”[1] (Xem ảnh phụ lục chụp kèm ở dưới).
Những ghi chép về ông khi làm Phó Tổng tài tham gia biên soạn sách Đại Nam thực lục trong cơ quan Quốc Sử quán triều Nguyễn[2] do ông làm Phó Tổng tài cụ thể như thế nào thì khó lòng xác định cho được rõ ràng. Chính sử triều Nguyễn vẫn chép phần ông biên soạn có các vị Tổng tài (3 vị), Phó Tổng tài (6 vị). Sử chép: “Vâng sắc Chỉ của vua cho chép rõ các quan chức tên họ những viên (sung vào làm bộ Thực lục Đệ tam kỷ) này: (từ năm Tự Đức thứ 29 [1876] trở về trước đã từng tiết thứ sửa làm).
Tổng tài: Cố mệnh lương thần, Thái bảo, Cần chính điện Đại học sĩ, quản lý Binh bộ sự vụ, sung Cơ mật viện đại thần, sung Kinh diên giảng quan, kiêm lĩnh Khâm thiên giám, Tuy Thịnh quận công, thần: Trương Đăng Quế.
Văn minh điện Đại học sĩ, lĩnh Binh bộ Thượng thư, sung Cơ mật viện đại thần, kiêm quản Khâm thiên giám sự vụ, sung Kinh kỳ hải phòng sứ, thần: Trần Tiễn Thành.
Hiệp biện Đại học sĩ, lĩnh Hộ bộ Thượng thư, kiêm lĩnh Quốc tử giám, sung Cơ mật viện đại thần, thần: Phan Thanh Giản.
Phó tổng tài:
Hiệp biện Đại học sĩ, lĩnh Lễ bộ Thượng thư, thần: Lâm Duy Thiếp.
Thự Hiệp biện Đại học sĩ, lĩnh Lễ bộ Thượng thư, thần: Lê Bá Thận.
Hình bộ Thượng thư, sung Kinh diên nhật giảng quan, kiêm biện Khâm thiên giám sự vụ, thần: Trương Quốc Dụng.
Thự Hình bộ Thượng thư kiêm quản Quốc tử giám, thần: Phan Huy Vịnh.
Tham tri quyền lĩnh Lại bộ Thượng thư, thần: Nguyễn Tư Giản.
Hình bộ Tả tham tri quyền sung Thương bạc, thần: Lê Tuấn”[3].
3. Kết luận
Có thể khái quát một vài nét về Hoàng giáp Thượng thư Lê Tuấn như sau: ông là một trong những đại thần triều Nguyễn dưới thời vua Tự Đức, quê xã Hà Trung, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh. Thuở nhỏ học tại quê nhà, năm Canh Tuất đỗ cử nhân tại trường thi Nghệ An, năm Qúy Sửu đỗ Tiến sĩ lúc 35 tuổi. Ông làm quan trải các chức trong triều ngoài quận, hai lần làm chánh sứ sang nước Thanh và nước Pháp. Từng làm Tham tri bộ Hình sau thăng đến Thượng thư… Khi mất được tặng làm Hiệp biện Đại học sĩ. Khi đi sứ sang Pháp vua Tự Đức có tặng thơ, nhưng chuyến đi này không thành vì phái đoàn vừa vào tới Gia Định thì ông lâm bệnh rồi mất đột ngột ở Sài Gòn. Sau đó, thi hài ông đưa về Huế rồi an táng tại quê nhà Hà Tĩnh. Cuộc đời và sự nghiệp của ông có nhiều đóng góp đối với triều Nguyễn trên nhiều lĩnh vực. Đối với lĩnh vực quân sự: nhiều năm ông cầm quân ngoài các tỉnh Bắc Kỳ đánh dẹp nạn phỉ hoành hành ở Bắc Kỳ; ông còn có những đóng góp về kinh tế, đê điều, thủy lợi… Ngoài những lĩnh vực trên ông còn có những đóng góp về thơ, văn: ông là tác giả các sách Yên thiều bút lục, Như Thanh nhật kí. Đặc biệt, ông là Phó Tổng tài Quốc Sử quán triều Nguyễn tham gia biên soạn bộ sách Đại Nam thực lục[4]. Với tài đức vẹn toàn, Lê Tuấn được nhà vua quý trọng, người đương thời mến mộ. Cuộc đời và sự nghiệp của Hoàng giáp Thượng thư Lê Tuấn tiêu biểu cho truyền thống cần cù, hiếu học, ý chí vươn lên mạnh mẽ của người dân Kỳ Anh nói riêng và người Hà Tĩnh nói chung.
[1] Đại Nam nhất thống chí, Quyển 10-11, Nha Văn hóa, Bộ Văn hóa - Giáo dục, Sài Gòn, 1964, tr.93. Xem thêm: Địa chí Khánh Hòa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr.444.
[2] Đại Nam thực lục là bộ chính sử lớn nhất, quan trọng nhất của nhà Nguyễn, do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn trong 88 năm mới hoàn thành, tính từ khi bắt đầu làm (1821 - Minh Mệnh năm thứ hai) đến khi hoàn thành và khắc in xong những quyển cuối cùng (1909 - Duy Tân năm thứ ba). Phần ông tham gia biên soạn năm ở tập 6 (bản dịch của Viện Sử học Việt Nam, xuất bản năm 2007):
- Tập sáu: Kỷ thứ ba (từ 1841 đến 1847) - Cao Huy Giu, Trịnh Đình Rư, Trần Huy Hân, Nguyễn Trọng Hân dịch. Hoa Bằng hiệu đính.
[3] Quốc Sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập 6, bản dịch Viện Sử học, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2007, tr.16.
[4] Bộ sách hiện nay đã được Viện Sử học dịch, xuất bản nhiều lần, phần ông biên soạn nằm trong tập 6.
Vào chiều ngày 01 tháng 11 năm 2024, Đại hội Chi bộ Khoa Tiếng Việt khóa VIII, nhiệm kỳ 2024 – 2027, đã diễn ra thành công tốt đẹp tại phòng họp số 13, Nhà 15 tầng với sự tham gia 100% đảng viên là giảng viên trong Chi bộ. Đặc biệt là sự có mặt của Đ/c Tống Thị Cẩm Lệ - Uỷ viên BCH Đảng uỷ. Sự kiện này không chỉ là dịp để tổng kết các hoạt động trong nhiệm kỳ vừa qua, mà còn là cơ hội để đề ra phương hướng phát triển cho nhiệm kỳ tới.
Tại Đại hội, các Đảng viên đã được nghe báo cáo tổng kết hoạt động nhiệm kỳ 2022-2024 do đồng chí Bí thư Chi bộ trình bày, báo cáo kiểm điểm của BCH chi bộ nhiệm kỳ vừa qua. Báo cáo đã nêu rõ những kết quả nổi bật mà Khoa đã đạt được, từ việc đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng giảng dạy môn Văn ở trường Phổ thông và môn Tiếng Việt cho LHS Lào đến việc tăng cường hợp tác quốc tế và tổ chức các sự kiện giao lưu văn hóa Việt Lào. Những kết quả này không chỉ khẳng định vị thế của Khoa mà còn động viên khích lệ đối với các cán bộ Đảng viên trong chi bộ! Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Chi bộ mới gồm 2 đồng chí: Đ/c Nguyễn Thị Lệ Hằng được bầu giữ chức vụ Bí thư chi bộ, Đ/c Trần Thị Anh Thư được bầu là Phó bi thư chi bộ, nhiệm kỳ 2024 - 2027. Ban Chấp hành mới được kỳ vọng sẽ tiếp tục phát huy những thành công của nhiệm kỳ trước; đồng thời, đã xây dựng được Nghị quyết của Đại hội, triển khai các chiến lược mới nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và phát triển nguồn nhân lực của Khoa.
Sự thành công của Đại hội không chỉ thể hiện qua việc hoàn thành các mục tiêu đề ra mà còn thông qua tinh thần đoàn kết, nhất trí cao của toàn thể đại biểu. Không khí làm việc nghiêm túc, nhưng cũng đầy nhiệt huyết và sáng tạo đã góp phần làm nên thành công chung của Đại hội.
Sau đây là mội số hình ảnh Đại hội:
Tín ngưỡng là niềm tin của con người được thể hiện thông qua những lễ nghi gắn liền với phong tục, tập quán truyền thống để mang lại sự bình an về tinh thần cho cá nhân và cộng đồng. Bởi vậy dân tộc Lào cũng có những tín ngưỡng gắn liền với đời sống của người dân trong dân tộc, đã trở thành nét đẹp truyền thống được lưu truyền từ xa xưa cho tới ngày nay. Đối với người dân Lào, tín ngưỡng đã ăn sâu vào tâm trí của họ từ lâu đời bởi vậy mới trở thành một đức tin gắn liền với cuộc sống. Khi nói đến tín ngưỡng của người dân, họ có rất nhiều tín ngưỡng khác nhau được chia thành nhiều loại như: tín ngưỡng về quỷ thần, tín ngưỡng về tôn giáo, tín ngưỡng về chiêm tinh…
Trong đó, tín ngưỡng về Thiên Đài được bắt nguồn từ tôn giáo bà la môn của nước Ấn Độ gắn liền với đời sống của người dân Lào từ xa xưa trước thời vua Phà Ngừm. Tuy nhiên, dưới thờ Xu-pha-nu-vông là thời kỳ mà vương quốc Lào đã phát triển rất hưng thịnh, ông đã xóa bỏ tất cả tín ngưỡng về quỷ thần và chuyển sang tín ngưỡng về đạo Phật. Nhưng trong tâm trí của người dân Lào tín ngưỡng về quỷ thần thì không thể xóa bỏ được và nó vẫn luôn tồn tại trong tâm trí và đời sống của người dân cho đến nay. Vì vậy mà tín ngưỡng về Thiên Đài đã trở thành tín ngưỡng cá nhân và được âm thầm lưu truyền cho tới ngày này.
Đối với quan niệm của người dân Lào, tín ngưỡng về quỷ thần có lịch sử lâu đời và nó được truyền lại từ thời ông bà tổ tiên trước khi phật giáo được du nhập vào Lào. Bởi vì trước đây người dân Lào chủ yếu tin vào quỷ thân do đó việc xây dựng các Thiên Đài có thể nói là có lịch sử từ lâu đời. Mỗi gia đình khi xây dựng hay chuyển về nhà mới thì việc dựng một Thiên Đài để thờ các vị quỷ thần là việc không thể thiếu đối với tín ngưỡng của họ. Việc dựng Thiên Đài trong gia đình phải do người lớn tuổi nhất đảm nhận, Thiên Đài đối với tín ngưỡng của họ là nơi để thờ cúng thần linh thổ địa. Họ tin rằng việc thờ cúng này sẽ được các vị quỷ thần cai quản khu vực mà nơi họ sinh sống sẽ bảo vệ sức khỏe cho bản thân và gia đình cũng như phù hộ cho họ có cuộc sống ấm no hạnh phúc. Một số gia đình họ còn mang mang tro cốt của người thân vào chính điện của Thiên Đài để thờ cúng.
Từ xa xưa, vị trí đặt Thiên Đài được đặt phía trước nhà của mỗi gia đình, tuy nhiên từ sau khi có thông báo loại bỏ Am thờ vào thời nước Lào thịnh vượng thì Thiên Đài không được phép đặt trước cửa nhà. Hiện nay, tín ngưỡng của người dân ngày càng được mở rộng nên xuất hiện hầu hết các Thiên Đài đặt trước nhà để thờ cúng. Gia chủ phải chọn vị trí phù hợp, thuận tiện và thích hợp, vị trí thường là nơi sạch sẽ, sáng sủa. Mục đích xây dựng Thiên Đài theo tín ngưỡng của người dân là để tỏ lòng thành kính với thần tiên, thổ địa. Bởi vì, họ có niềm tin rằng ở đâu có thần linh thổ địa cai quản thì họ luôn phù hộ cho gia chủ gặp nhiều may mắn, sức khỏe, làm ăn phát đạt…Bên cạnh đó, một số gia đình lập Thiên Đài còn để thờ tro cốt của người thân vào ngày mồng một và ngày rằm.
Màu sắc và quy mô của Thiên Đài được lựa chọn phụ thuộc vào sở thích của mỗi gia đình, làng bản. Đối với Thiên Đài gia đình người dân lào dùng một cột, còn đối với Thiên Đài làng bản thì họ dùng 6 cột. Thiên Đài có thể sử dụng nhiều màu sắc như trắng, xanh lá cây, gạch, vàng, bạc, đỏ…Trong Thiên Đài có nhiều vật dụng thờ cúng như tượng mẹ, tượng các loài vật linh thiêng như voi, ngựa… nhưng có nhiều Thiên Đài không thờ các tượng vì người ta tin rằng trong Thiên Đài là nơi có linh hồn quỷ thần trú ngụ mà mắt thường không thể thấy được. Thiên Đài chỉ được thắp hương thờ cúng vào ngày rằm mồng một và các ngày lễ hội, các ngày truyền thống của bản làng, dân tộc… Khi thắp hương người dân họ thường cầu nguyện, cầu mong phước lành may mắn đến với gia đình và người thân. Bởi vì họ tin rằng họ luôn được quỷ thần che chở cho gia đình họ.
Vì vậy, có thể nói rằng Thiên Đài đóng một vai trò rất quan trọng đời sống văn hóa tín ngưỡng của người dân Lào, họ tin rằng các quỷ thần có thể phù hộ, giúp đỡ, che chở cho gia chủ và toàn thể gia đình họ luôn có sức khỏe, bình an, gặp nhiều may mắn và làm ăn phát đạt.
Chiều 24/10/2024, Trường Đại học Hà Tĩnh đã tổ chức Lễ tổng kết khóa học tiếng Việt cho Lưu học sinh Lào K16 Tiếng Việt. Đến dự lễ có TS. Trần Thị Ái Đức – Phụ trách hội đồng trường, Phó hiệu trưởng; TS. Hồ Thị Nga, Phó hiệu trưởng nhà trường; đại diện Phòng Đào tạo, Phòng Công tác HSSV, các giảng viên Khoa Tiếng VIệt và toàn thể các em LHS Lào K16TV niên khóa 2023-2024.
TS. Trần Thị Ái Đức và các vị đại biểu đã nhiệt liệt chúc mừng 45 cán bộ và học sinh của các tỉnh (Bôlikhamxay, Khăm muộn, Savannakhet, Viêng Chăn, Bo Keo) đã hoàn thành tốt nhiệm vụ của khóa học đồng thời động viên các Lưu học sinh tiếp tục trau dồi kĩ năng sử dụng tiếng Việt để có nhiều điều kiện thuận lợi khi về công tác ở nước Lào hay tiếp tục học Đại học ở Việt Nam.
Ban giám hiệu và đại diện Phòng Đào tạo đã trao tặng giấy khen và phần thưởng cho các Lưu học sinh có kết quả học tập đạt loại Xuất sắc và loại Giỏi trong khóa học. (Ảnh 1)
Đáp lại tình cảm của các thầy cô, em Khamthavy lớp TV1 đã thay mặt các bạn bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với Ban giám hiệu cũng như cán bộ giảng viên trường Đại học Hà Tĩnh và hứa sẽ phấn đấu học tập tốt hơn để trở thành những công dân có ích cho đất nước Lào, góp phần vun đắp mối tình hữu nghị thiêng liêng Việt - Lào.(Hình 2)
Sau buổi lễ Ban giám hiệu, đại diện các phòng ban và cán bộ, giảng viên khoa Tiếng Việt đã cùng các em chụp ảnh lưu niệm cũng nhau lưu giữ những khoảnh khắc trong ngày đặc biệt.
Một số hình ảnh tại buổi lễ.