foto1
Khoa Tiếng Việt
foto1
Khoa Tiếng Việt
foto1
Khoa Tiếng Việt
foto1
Khoa Tiếng Việt
foto1
Khoa Tiếng Việt
Play/Pause

+(084)0393.885.133
khoatiengviet@htu.edu.vn
Liên hệ



2. Về lĩnh vực văn học, sử học

Trước tác của Lê Tuấn hiện chỉ còn hai quyển “Yên thiều bút lục” (văn) và “Như thanh nhật ký” (sử - văn) viết khi ông đi sứ Nhà Thanh về. Ngoài ra, ông còn làm Phó Tổng tài Quốc sử quán, tham gia biên soạn bộ sử Đại Nam thực lục chính biên (Đệ tam kỷ - Quyển thủ), là bộ sử chính thống của Nhà Nguyễn.

Lê Tuấn thường sáng tác khi đi sứ do có thời gian và điều kiện nhàn rỗi  hơn. Những trước tác về thơ văn của Lê Tuấn không nhiều, hơn nữa việc tìm lại những sáng tác thơ văn trong quá trình làm quan của ông vô cùng khó khăn.  Sách Đại Nam nhất thống chí Địa chí Khánh Hòa đều có nhắc đến sáng tác của Thượng thư Lê Tuấn nhưng không thấy chép nêu tên cụ thể là bài tên là gì? Nội dung ra sao? Chỉ biết rằng: “Những danh nhân quá bộ đến đây, có nhiều người dựng bia, đề thơ đề kỷ niệm danh thẳng như: Nguyên Hiệp biện lãnh Thượng thơ Phan Thanh Giản, Khánh Hòa Bố chánh Nguyễn Quỳnh, Thuận - Khánh Tuần phủ Nguyễn Thạnh, Bình Thuận Bố chánh Trần Điền, sung Điền Nông  sứ Phan Trung, đều có lập bi ký; Hình bộ Thượng thư sung chính sử Lê Tuấn, Lễ bộ Tham tri Nguyễn Văn Tường, Khánh Hòa Đốc học Đinh Nho Quang đều có thơ đề vịnh[1] (Xem ảnh phụ lục chụp kèm ở dưới).

Những ghi chép về ông khi làm Phó Tổng tài tham gia biên soạn sách Đại Nam thực lục trong cơ quan Quốc Sử quán triều Nguyễn[2] do ông làm Phó Tổng tài cụ thể như thế nào thì khó lòng xác định cho được rõ ràng. Chính sử triều Nguyễn vẫn chép phần ông biên soạn có các vị Tổng tài (3 vị), Phó Tổng tài (6 vị). Sử chép: “Vâng sắc Chỉ của vua cho chép rõ các quan chức tên họ những viên (sung vào làm bộ Thực lục Đệ tam kỷ) này: (từ năm Tự Đức thứ 29 [1876] trở về trước đã từng tiết thứ sửa làm).

Tổng tài: Cố mệnh lương thần, Thái bảo, Cần chính điện Đại học sĩ, quản lý Binh bộ sự vụ, sung Cơ mật viện đại thần, sung Kinh diên giảng quan, kiêm lĩnh Khâm thiên giám, Tuy Thịnh quận công, thần: Trương Đăng Quế.

Văn minh điện Đại học sĩ, lĩnh Binh bộ Thượng thư, sung Cơ mật viện đại thần, kiêm quản Khâm thiên giám sự vụ, sung Kinh kỳ hải phòng sứ, thần: Trần Tiễn Thành.

Hiệp biện Đại học sĩ, lĩnh Hộ bộ Thượng thư, kiêm lĩnh Quốc tử giám, sung Cơ mật viện đại thần, thần: Phan Thanh Giản.

Phó tổng tài:

Hiệp biện Đại học sĩ, lĩnh Lễ bộ Thượng thư, thần: Lâm Duy Thiếp.

Thự Hiệp biện Đại học sĩ, lĩnh Lễ bộ Thượng thư, thần: Lê Bá Thận.

Hình bộ Thượng thư, sung Kinh diên nhật giảng quan, kiêm biện Khâm thiên giám sự vụ, thần: Trương Quốc Dụng.

Thự Hình bộ Thượng thư kiêm quản Quốc tử giám, thần: Phan Huy Vịnh.

Tham tri quyền lĩnh Lại bộ Thượng thư, thần: Nguyễn Tư Giản.

Hình bộ Tả tham tri quyền sung Thương bạc, thần: Lê Tuấn[3].

3. Kết luận

Có thể khái quát một vài nét về Hoàng giáp Thượng thư Lê Tuấn như sau: ông là một trong những đại thần triều Nguyễn dưới thời vua Tự Đức, quê xã Hà Trung, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh. Thuở nhỏ học tại quê nhà, năm Canh Tuất đỗ cử nhân tại trường thi Nghệ An, năm Qúy Sửu đỗ Tiến sĩ lúc 35 tuổi. Ông làm quan trải các chức trong triều ngoài quận, hai lần làm chánh sứ sang nước Thanh và nước Pháp. Từng làm Tham tri bộ Hình sau thăng đến Thượng thư… Khi mất được tặng làm Hiệp biện Đại học sĩ. Khi đi sứ sang Pháp vua Tự Đức có tặng thơ, nhưng chuyến đi này không thành vì phái đoàn vừa vào tới Gia Định thì ông lâm bệnh rồi mất đột ngột ở Sài Gòn. Sau đó, thi hài ông đưa về Huế rồi an táng tại quê nhà Hà Tĩnh. Cuộc đời và sự nghiệp của ông có nhiều đóng góp đối với triều Nguyễn trên nhiều lĩnh vực. Đối với lĩnh vực quân sự: nhiều năm ông cầm quân ngoài các tỉnh Bắc Kỳ đánh dẹp nạn phỉ hoành hành ở Bắc Kỳ; ông còn có những đóng góp về kinh tế, đê điều, thủy lợi… Ngoài những lĩnh vực trên ông còn có những đóng góp về thơ, văn: ông là tác giả các sách Yên thiều bút lục, Như Thanh nhật kí. Đặc biệt, ông là Phó Tổng tài Quốc Sử quán triều Nguyễn tham gia biên soạn bộ sách Đại Nam thực lục[4]. Với tài đức vẹn toàn, Lê Tuấn được nhà vua quý trọng, người đương thời mến mộ. Cuộc đời và sự nghiệp của Hoàng giáp Thượng thư Lê Tuấn tiêu biểu cho truyền thống cần cù, hiếu học, ý chí vươn lên mạnh mẽ của người dân Kỳ Anh nói riêng và người Hà Tĩnh nói chung.

 

[1] Đại Nam nhất thống chí, Quyển 10-11, Nha Văn hóa, Bộ Văn hóa - Giáo dục, Sài Gòn, 1964, tr.93. Xem thêm: Địa chí Khánh Hòa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr.444.

[2] Đại Nam thực lục là bộ chính sử lớn nhất, quan trọng nhất của nhà Nguyễn, do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn trong 88 năm mới hoàn thành, tính từ khi bắt đầu làm (1821 - Minh Mệnh năm thứ hai) đến khi hoàn thành và khắc in xong những quyển cuối cùng (1909 - Duy Tân năm thứ ba). Phần ông tham gia biên soạn năm ở tập 6 (bản dịch của Viện Sử học Việt Nam, xuất bản năm 2007):

- Tập sáu: Kỷ thứ ba (từ 1841 đến 1847) - Cao Huy Giu, Trịnh Đình Rư, Trần Huy Hân, Nguyễn Trọng Hân dịch. Hoa Bằng hiệu đính.

[3] Quốc Sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập 6, bản dịch Viện Sử học, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2007, tr.16.

[4] Bộ sách hiện nay đã được Viện Sử học dịch, xuất bản nhiều lần, phần ông biên soạn nằm trong tập 6.

Tín ngưỡng là niềm tin của con người được thể hiện thông qua những lễ nghi gắn liền với phong tục, tập quán truyền thống để mang lại sự bình an về tinh thần cho cá nhân và cộng đồng. Bởi vậy dân tộc Lào cũng có những tín ngưỡng gắn liền với đời sống của người dân trong dân tộc, đã trở thành nét đẹp truyền thống được lưu truyền từ xa xưa cho tới ngày nay. Đối với người dân Lào, tín ngưỡng đã ăn sâu vào tâm trí của họ từ lâu đời bởi vậy mới trở thành một đức tin gắn liền với cuộc sống. Khi nói đến tín ngưỡng của người dân, họ có rất nhiều tín ngưỡng khác nhau được chia thành nhiều loại như: tín ngưỡng về quỷ thần, tín ngưỡng về tôn giáo, tín ngưỡng về chiêm tinh…

Trong đó, tín ngưỡng về Thiên Đài được bắt nguồn từ tôn giáo bà la môn của nước Ấn Độ gắn liền với đời sống của người dân Lào từ xa xưa trước thời vua Phà Ngừm. Tuy nhiên, dưới thờ Xu-pha-nu-vông là thời kỳ mà vương quốc Lào đã phát triển rất hưng thịnh, ông đã xóa bỏ tất cả tín ngưỡng về quỷ thần và chuyển sang tín ngưỡng về đạo Phật. Nhưng trong tâm trí của người dân Lào tín ngưỡng về quỷ thần thì không thể xóa bỏ được và nó vẫn luôn tồn tại trong tâm trí và đời sống của người dân cho đến nay. Vì vậy mà tín ngưỡng về Thiên Đài đã trở thành tín ngưỡng cá nhân và được âm thầm lưu truyền cho tới ngày này.

Đối với quan niệm của người dân Lào, tín ngưỡng về quỷ thần có lịch sử lâu đời và nó được truyền lại từ thời ông bà tổ tiên trước khi phật giáo được du nhập vào Lào. Bởi vì trước đây người dân Lào chủ yếu tin vào quỷ thân do đó việc xây dựng các Thiên Đài có thể nói là có lịch sử từ lâu đời. Mỗi gia đình khi xây dựng hay chuyển về nhà mới thì việc dựng một Thiên Đài để thờ các vị quỷ thần là việc không thể thiếu đối với tín ngưỡng của họ. Việc dựng Thiên Đài trong gia đình phải do người lớn tuổi nhất đảm nhận, Thiên Đài đối với tín ngưỡng của họ là nơi để thờ cúng thần linh thổ địa. Họ tin rằng việc thờ cúng này sẽ được các vị quỷ thần cai quản khu vực mà nơi họ sinh sống sẽ bảo vệ sức khỏe cho bản thân và gia đình cũng như phù hộ cho họ có cuộc sống ấm no hạnh phúc. Một số gia đình họ còn mang mang tro cốt của người thân vào chính điện của Thiên Đài để thờ cúng.

Từ xa xưa, vị trí đặt Thiên Đài được đặt phía trước nhà của mỗi gia đình, tuy nhiên từ sau khi có thông báo loại bỏ Am thờ vào thời nước Lào thịnh vượng thì Thiên Đài không được phép đặt trước cửa nhà. Hiện nay, tín ngưỡng của người dân ngày càng được mở rộng nên xuất hiện hầu hết các Thiên Đài đặt trước nhà để thờ cúng. Gia chủ phải chọn vị trí phù hợp, thuận tiện và thích hợp, vị trí thường là nơi sạch sẽ, sáng sủa. Mục đích xây dựng Thiên Đài theo tín ngưỡng của người dân là để tỏ lòng thành kính với thần tiên, thổ địa. Bởi vì, họ có niềm tin rằng ở đâu có thần linh thổ địa cai quản thì họ luôn phù hộ cho gia chủ gặp nhiều may mắn, sức khỏe, làm ăn phát đạt…Bên cạnh đó, một số gia đình lập Thiên Đài còn để thờ tro cốt của người thân vào ngày mồng một và ngày rằm.

Màu sắc và quy mô của Thiên Đài được lựa chọn phụ thuộc vào sở thích của mỗi gia đình, làng bản. Đối với Thiên Đài gia đình người dân lào dùng một cột, còn đối với Thiên Đài làng bản thì họ dùng 6 cột. Thiên Đài có thể sử dụng nhiều màu sắc như trắng, xanh lá cây, gạch, vàng, bạc, đỏ…Trong Thiên Đài có nhiều vật dụng thờ cúng như tượng mẹ, tượng các loài vật linh thiêng như voi, ngựa… nhưng có nhiều Thiên Đài không thờ các tượng vì người ta tin rằng trong Thiên Đài là nơi có linh hồn quỷ thần trú ngụ mà mắt thường không thể thấy được. Thiên Đài chỉ được thắp hương thờ cúng vào ngày rằm mồng một và các ngày lễ hội, các ngày truyền thống của bản làng, dân tộc… Khi thắp hương người dân họ thường cầu nguyện, cầu mong phước lành may mắn đến với gia đình và người thân. Bởi vì họ tin rằng họ luôn được quỷ thần che chở cho gia đình họ.

Vì vậy, có thể nói rằng Thiên Đài đóng một vai trò rất quan trọng đời sống văn hóa tín ngưỡng của người dân Lào, họ tin rằng các quỷ thần có thể phù hộ, giúp đỡ, che chở cho gia chủ và toàn thể gia đình họ luôn có sức khỏe, bình an, gặp nhiều may mắn và làm ăn phát đạt.

Chiều 24/10/2024, Trường Đại học Hà Tĩnh đã tổ chức Lễ tổng kết khóa học tiếng Việt cho Lưu học sinh Lào K16 Tiếng Việt. Đến dự lễ có TS. Trần Thị Ái Đức – Phụ trách hội đồng trường, Phó hiệu trưởng; TS. Hồ Thị Nga, Phó hiệu trưởng nhà trường; đại diện Phòng Đào tạo, Phòng Công tác HSSV, các giảng viên Khoa Tiếng VIệt và toàn thể các em LHS Lào K16TV niên khóa 2023-2024.

TS. Trần Thị Ái Đức và các vị đại biểu đã nhiệt liệt chúc mừng 45 cán bộ và học sinh của các tỉnh (Bôlikhamxay, Khăm muộn, Savannakhet, Viêng Chăn, Bo Keo) đã hoàn thành tốt nhiệm vụ của khóa học đồng thời động viên các Lưu học sinh tiếp tục trau dồi kĩ năng sử dụng tiếng Việt để có nhiều điều kiện thuận lợi khi về công tác ở nước Lào hay tiếp tục học Đại học ở Việt Nam.

Ban giám hiệu và đại diện Phòng Đào tạo đã trao tặng giấy khen và phần thưởng cho các Lưu học sinh có kết quả học tập đạt loại Xuất sắc và loại Giỏi trong khóa học.  (Ảnh 1)

Đáp lại tình cảm của các thầy cô, em Khamthavy lớp TV1 đã thay mặt các bạn bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với Ban giám hiệu cũng như cán bộ giảng viên trường Đại học Hà Tĩnh và hứa sẽ phấn đấu học tập tốt hơn để trở thành những công dân có ích cho đất nước Lào, góp phần vun đắp mối tình hữu nghị thiêng liêng Việt - Lào.(Hình 2)

Sau buổi lễ Ban giám hiệu, đại diện các phòng ban và cán bộ, giảng viên khoa Tiếng Việt đã cùng các em chụp ảnh lưu niệm cũng nhau lưu giữ những khoảnh khắc trong ngày đặc biệt.

Một số hình ảnh tại buổi lễ.

 

Vào chiều ngày 01 tháng 11 năm 2024, Đại hội Chi bộ Khoa Tiếng Việt  khóa VIII, nhiệm kỳ 2024 – 2027, đã diễn ra thành công tốt đẹp tại phòng họp số 13, Nhà 15 tầng với sự tham gia 100% đảng viên là giảng viên trong Chi bộ. Đặc biệt là sự có mặt của Đ/c Tống Thị Cẩm Lệ - Uỷ viên BCH Đảng uỷ. Sự kiện này không chỉ là dịp để tổng kết các hoạt động trong nhiệm kỳ vừa qua, mà còn là cơ hội để đề ra phương hướng phát triển cho nhiệm kỳ tới.

            Tại Đại hội, các Đảng viên đã được nghe báo cáo tổng kết hoạt động nhiệm kỳ 2022-2024 do đồng chí Bí thư Chi bộ trình bày, báo cáo kiểm điểm của BCH chi bộ nhiệm kỳ vừa qua. Báo cáo đã nêu rõ những kết quả nổi bật mà Khoa đã đạt được, từ việc đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng giảng dạy môn Văn ở trường Phổ thông và môn Tiếng Việt cho LHS Lào đến việc tăng cường hợp tác quốc tế và tổ chức các sự kiện giao lưu văn hóa Việt Lào. Những kết quả này không chỉ khẳng định vị thế của Khoa  mà còn động viên khích lệ đối với các cán bộ Đảng viên trong chi bộ! Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Chi bộ mới gồm 2 đồng chí: Đ/c Nguyễn Thị Lệ Hằng được bầu giữ chức vụ Bí thư chi bộ, Đ/c Trần Thị Anh Thư được bầu là Phó bi thư chi bộ, nhiệm kỳ 2024 - 2027. Ban Chấp hành mới được kỳ vọng sẽ tiếp tục phát huy những thành công của nhiệm kỳ trước; đồng thời, đã xây dựng được Nghị quyết của Đại hội, triển khai các chiến lược mới nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và phát triển nguồn nhân lực của Khoa.

               Sự thành công của Đại hội không chỉ thể hiện qua việc hoàn thành các mục tiêu đề ra mà còn thông qua tinh thần đoàn kết, nhất trí cao của toàn thể đại biểu. Không khí làm việc nghiêm túc, nhưng cũng đầy nhiệt huyết và sáng tạo đã góp phần làm nên thành công chung của Đại hội.

     Sau đây là mội số hình ảnh Đại hội:

Ảnh tập thểẢnh 3 người

I. Đặt vấn đề

Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng nền móng và chính Người cùng đồng chí Cayxỏn Phômvihản, đồng chí Xuphanuvông và các thế hệ lãnh đạo hai Đảng, hai Nhà nước dày công vun đắp, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, Đảng Nhân dân cách mạng Lào và Đảng Cộng sản Việt Nam. Nghiên cứu về địa lí, lịch sử và quan hệ ngoại giao giữa hai nước Việt Nam và Lào nhằm chỉ ra những nét tương đồng và khác biệt giữa hai đất nước cũng là đi tìm lời lí giải cho mối quan hệ đặc biệt mang tính xuyên suốt, toàn diện và bền vững này. Xây dựng, bảo vệ và phát huy những điểm tương đồng, đồng thời tôn trọng những giá trị riêng về văn hóa, ngôn ngữ, lịch sử…của hai dân tộc chính là cơ sở để gìn giữ  mối quan hệ hữu nghị Việt Nam – Lào trong sự nghiệp phát triển lâu dài của nhân dân hai nước.

II. Nội dung

  1. Điểm tương đồng

1.1.Về địa lí

        Về mặt địa lý, Việt Nam và Lào cùng nằm trên bán đảo Đông Dương thuộc vùng Đông Nam châu Á. Địa hình hai nước rất đa dạng, đều có đồng bằng, rừng núi và cao nguyên (rừng núi và cao nguyên chiếm đến 3/4 diện tích lãnh thổ mỗi nước).

         Việt Nam và Lào đều có mạng lưới sông ngòi dày đặc gắn cư dân hai nước với những hoạt động ở vùng sông nước và nghề chài lưới. Đây không chỉ là nguồn lợi lớn về kinh tế mà còn là hệ thống giao thông đường thuỷ thuận tiện. Dãy Trường Sơn có thể ví như cột sống của hai nước, tạo thành biên giới tự nhiên trên đất liền giữa Việt Nam và Lào.

Địa hình của nước Lào rừng núi chiếm 3/4 diện tích lãnh thổ. Ở Nam Lào, rừng chen lấn với đồng bằng, tạo nên một màu xanh ngút ngàn của thiên nhiên nhiệt đới. Ở miền Trung Việt Nam, rừng lan ra tận  biển; một số nơi rừng còn xen lẫn với đồng bằng. Như vậy, rừng giữ một vị trí đặc biệt trong đời sống của nhân dân Việt Nam và của nhân dân các bộ tộc Lào.

  • . Về lịch sử

Về lịch sử, dân tộc Việt Nam và dân tộc Lào đều có một bề dày truyền thống lịch sử với biết bao biến cố, thăng trầm. Từ thời xa xưa trong buổi đầu mở mang bờ cõi, nhân dân hai nước luôn có ý thức tầm quan trọng của việc xây dựng nên một đất nước độc lập, có chủ quyền.

Thời phong kiến ở Việt Nam và Lào đều có đặc điểm chung là nhà nước thuộc chế độ quân chủ tập quyền. Nếu như  ở Lào, có ba vị vua được ghi danh trong lịch sử nước nhà dưới hình thức huyền thoại và truyền thuyết thì ở Việt Nam cũng có nhiều các vị vua có công với nước cũng được lưu danh sử sách qua các thời kì dựng nước và giữ nước.

Lịch sử Việt Nam và Lào trong thời kì hiện đại có mối quan hệ ảnh hưởng lẫn nhau vô cùng sâu sắc. Đặc biệt trong hai cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ, hai dân tộc đã cùng chung chiến hào, nhân dân hai nước đoàn kết, thống nhất làm một, tạo thành một sức mạnh to lớn đưa cuộc cách mạng kéo dài 30 năm (1945- 1975) đi đến thắng lợi hoàn toàn. Lào và Việt Nam đã giành độc lập, chủ quyền và ngày nay đang cùng nhau xây dựng đất nước theo con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.

1.3. Về quan hệ ngoại giao

          Về quan hệ ngoại giao, do điều kiện tự nhiên và quan hệ láng giềng gần gũi, quan hệ Việt Nam - Lào hình thành từ rất sớm, có thể nói ngay từ khi xuất hiện những cư dân Việt Nam và Lào trên khu vực địa lý lịch sử này.

 Trong qúa trình dựng nước và giữ nước của từng dân tộc cũng như trong giao lưu về kinh tế và văn hoá, không chỉ các nhà nước phong kiến hai nước quan hệ với nhau mà nhân dân hai nước cũng thường xuyên liên hệ với nhau, ủng hộ và giúp đỡ nhau một cách tự phát, nhất là những cư dân khu vực vùng giáp biên giới hai nước. 

           Quan hệ thân thiện Việt Nam và Lào phát triển đột biến trở thành quan hệ đặc biệt vào năm 1930 khi sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc của Việt Nam và Lào được tiến hành theo con đường cách mạng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc vạch ra, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Đông Dương. Từ đó đến nay hai dân tộc luôn gắn bó, giúp đỡ lẫn nhau, kề vai sát cánh bên nhau không thể chia rời.

1.4. Về ngôn ngữ            

Ở Việt Nam có bốn dòng ngôn ngữ: Nam Á, Nam Đảo, Tày Thái và Tạng  Miến, trong đó tiếng Việt đóng vai trò ngôn ngữ quốc gia và là tiếng mẹ đẻ của người Việt. Ở Lào chỉ có ba dòng ngôn ngữ là Nam Á, Tày Thái và Tạng Miến, trong đó tiếng Lào đóng vai trò ngôn ngữ quốc gia và là tiếng mẹ đẻ của người Lào.

            Theo kết quả nghiên cứu của Maspero, Haudricourt và gần đây là Phạm Đức Dương thì tiếng Việt là ngôn ngữ pha trộn với hai ngôn ngữ chủ đạo: ngôn ngữ Môn - Khơme đóng vai trò cơ tầng và ngôn ngữ Thái đóng vai trò cơ chế. Vì thế, xét về mặt nguồn gốc thì tiếng Việt gắn với tiếng Môn - Khơme, nhưng xét về mặt loại hình thì tiếng Việt vận hành giống tiếng Thái, tiếng Lào. Do đó, tiếng Việt và tiếng Lào có mối quan hệ tiếp xúc rất lâu đời (khi nhóm Lào - Thái chưa tách nhau) và cùng một loại hình với cấu trúc CVC có thanh điệu. Vì vậy, giữa hai ngôn ngữ có rất nhiều yếu tố cùng gốc và cấu tạo rất giống nhau. Về chữ viết thì có thể thấy cả Việt Nam và Lào đều có hiện tượng vay mượn chữ viết của các dân tộc khác có quan hệ tiếp xúc gần gũi.

2. Điểm khác biệt

Mặc dù đất nước Lào và Việt Nam có nhiều điểm tương đồng về lịch sử, địa lí và quan hệ ngoại giao nhưng chính sự khác nhau lại làm nên bức tranh đa sắc màu về đất nước Việt Nam và đất nước Lào.

  Cùng nằm trên bán đảo Đông Dương nhưng Lào là một quốc gia không có biển, trong khi đó Việt Nam có tới 3.260 km bờ biển và hơn 3.000 hòn đảo. Trái lại, Lào lại là ngã tư đường của mọi cuộc tiếp xúc giao lưu với các nước trong khu vực trên đất liền một cách thuận lợi. Xét về mặt tự nhiên, Việt Nam có đầy đủ cả ba yếu tố: đồng bằng, núi và biển. Trong khi đó thì nước Lào chỉ có đồng bằng và miền núi mà không có biển. Các đặc điểm tự nhiên đó tạo ra các vùng văn hoá đặc trưng của mỗi nước. Dãy Trường Sơn, (dài 1100 km) chắn ngang biên giới của hai nước tạo ra hai vùng khí hậu khác biệt giữa hai nước.

Xét về phương diện lịch sử, nguồn gốc của người Việt Nam và người Lào có nhiều điểm khác nhau. Dân tộc Việt Nam đã được hình thành và bước đầu phát triển trên vùng châu thổ sông Hồng và sông Mã phía Bắc của Việt Nam ngày nay.  Các nhà khảo cổ đã tìm thấy các di tích chứng minh loài người đã từng sống tại Việt Nam từ thời kỳ Đồ đá cũ. Còn người Lào - nhóm dân tộc chính sống tại nước Lào hiện nay, là một nhánh của các dân tộc sử dụng hệ ngôn ngữ Thái, những người mà cho tới thế kỉ 8 đã thiết lập vương quốc Nam Chiếu hùng mạnh ở phía tây nam Trung Quốc.

            Trong thời kì cổ trung đại, dân tộc Việt Nam đã trải qua 1000 năm đô hộ của phong kiến phương Bắc còn dân tộc Lào trong nhiều thập kỷ, cũng nhiều lần phải chống các cuộc xâm lược của Miến Điện và Xiêm.

            Cuối thế kỉ XIX, Lào và Việt Nam cùng bị thực dân Pháp xâm lược và đặt ách cai trị tàn bạo. Nhân dân hai nước đã đoàn kết cùng nhau chiến đấu chống lại kẻ thù chung và đi đến thắng lợi cuối cùng.

Tuy nhiên so với lịch sử đất nước Lào, lịch sử Việt Nam trải qua nhiều biến cố, thăng trầm với những trang sử đen tối, đau thương và đầy uất hận. Vừa dựng nước người Việt đã phải liên tiếp đương đầu với sự xâm lăng của các thế lực bên ngoài. Độ dài thời gian và tần suất các cuộc kháng chiến, khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam rất lớn. Kể từ cuộc kháng chiến chống Tần (thế kỷ III trước Công nguyên) đến cuối thế kỷ XX, đã có tới 12 thế kỷ Việt Nam phải tiến hành hàng trăm cuộc chiến tranh giữ nước, khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng. Sự tồn vong của một dân tộc đã sản sinh ra tinh thần bất khuất, kiên cường, bền bỉ đấu tranh bảo tồn cuộc sống, quyết giành lại độc lập cho dân tộc của người dân Việt Nam.

Từ những nét tương đồng và khác biệt về địa lí, lịch sử, quan hệ ngoại giao đã dẫn đến bức tranh ngôn ngữ tộc người giữa hai nước là khá gần gũi và có cùng quan hệ cội nguồn và tiếp xúc.

Sự khác nhau chủ yếu giữa hai ngôn ngữ: tiếng Lào là một ngôn ngữ đơn tiết có cấu trúc CVC, có thanh điệu, âm tiết trùng với hình vị và từ nhưng lại vay mượn rất nhiều từ Pali và Sanskrit vốn là một ngôn ngữ biến hình đa tiết; trong khi đó, tiếng Việt vay mượn tiếng Hán vốn cùng loại hình. Sự khác nhau đó làm cho tiếng Lào trở thành ngôn ngữ có nhiều từ đa tiết và mỗi âm tiết đều không có nghĩa, làm cho cấu tạo từ của tiếng Lào trở nên khác biệt về mặt ngữ âm.            

Chữ Hán được mọi người Việt đều dùng từ thời Bắc thuộc và sau này, thời độc lập, người Việt vẫn dùng chữ Hán là ngôn ngữ quốc gia cho đến thế kỷ XX. Bên cạnh đó, người Việt dùng chữ Hán để ghi tiếng Việt và có sự biến đổi thành chữ Nôm. Chữ Nôm chưa bao giờ được dùng làm quốc tự mà được sử dụng trong việc sáng tác thơ văn, ghi hương ước, gia phả… Chữ Latinh do các giáo sĩ phương Tây đưa vào để ghi tiếng Việt, ta gọi đó là chữ quốc ngữ. 

Chữ viết của người Lào lại vay mượn từ chữ Ấn Độ (Pali - Sanskrit), và chữ Phạn (Sanskrit) một loại chữ gãy ở miền Bắc Ấn Độ được dùng để ghi kinh Phật Đại thừa và phái Xay Nha Xạt thuộc đạo Bà la môn. Đó là chữ Thay Nhơ. Còn chữ Pali, loại chữ tròn được cải biến thành chữ Thặm. Cả hai thứ chữ trên được kết hợp lại thành chữ Lào ngày nay.

III. Kết luận

Như vậy, những nét tương đồng và khác biệt về các yếu tố địa lí, lịch sử và quan hệ ngoại giao giữa người Việt và người Lào đều là cơ sở để tạo nên nhiều nét tương đồng, dị biệt trong ngôn ngữ nói riêng, trong nền văn hoá giữa hai dân tộc nói chung. Đó cũng là chất keo gắn kết lâu dài giữa hai đất nước nhằm phát huy truyền thống hữu nghị trong bối cảnh hội nhập quốc tế, hợp tác, phát triển toàn diện trên mọi mặt, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa như lời Chủ tịch Cayxỏn Phômvihản đã từng khẳng định: “Núi có thể mòn. Sông có thể cạn. Song tình nghĩa Lào - Việt sẽ mãi mãi vững bền hơn núi, hơn sông”…

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 [1] Phạm Đức Dương (1998), Ngôn ngữ và văn hoá Lào trong bối cảnh Đông Nam Á, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 385 tr.

[2] Phạm Đức Dương (2002), Từ văn hoá đến văn hoá học, Nxb Văn hoá-Thông tin, H, 778 tr.



Copyright © 2025 Copyright Khoa Tiếng Việt - Trường Đại học Hà Tĩnh Rights Reserved.

To Top