Bài viết tiếp cận trích đoạn “Trao duyên” trong “Truyện Kiều” của đại thi hào Nguyễn Du từ những mối quan hệ đối lập như: lí trí - tình cảm, hữu hình - vô hình,  hạnh phúc – khổ đau, hiện thực - khát vọng, vị tha - vị kỉ, mê – tỉnh, chung tình - phụ tình... Qua đó, phải khẳng định rằng, việc tạo dựng những mối quan hệ đối lập như một thủ pháp nghệ thuật đắc địa đã giúp Nguyễn Du thể hiện sâu sắc cái nhìn đa chiều về thế giới nội tâm phong phú, phức tạp và những phẩm chất cao cả của Thúy Kiều trong sự biểu hiện chân thật của nhân tính, đầy tinh thần nhân đạo. Từ những mối quan hệ đối lập đó, đại thi hào đã lồng cảm hứng nhân đạo sâu xa trong cảm hứng hiện thực làm nên linh hồn của “Truyện Kiều” nói chung và trích đoạn “Trao duyên” nói riêng. Với đoạn trích này đã phần nào cho thấy một bút lực đầy tài năng, tinh tế, nhạy cảm và “tấm lòng thơ với tình đời thiết tha” của Nguyễn Du trong việc khắc họa một điển hình về kiếp “hồng nhan bạc mệnh” trong xã hội phong kiến.

   “Truyện Kiều” của đại thi hào Nguyễn Du (1765-1820) gồm 3.254 câu thơ lục bát được Hội đồng Liên minh Kỷ lục thế giới đánh giá là một kiệt tác văn học. Sau cách mạng tháng Tám, nhất là sau năm 1975 cho tới nay tác giả Nguyễn Du và “Truyện Kiều” đã được các nhà soạn sách lựa chọn đưa vào giảng dạy trong nhà trường với nhiều đoạn trích tiêu biểu. “Trao duyên” được xem là một trong những đoạn trích hay nhất được lựa chọn đưa vào giảng dạy trong chương trình Ngữ Văn 10 của trường phổ thông. “Trao duyên” - tên nhan đề  được người biên soạn đặt theo ý nghĩa cốt lõi của đoạn trích từ câu  723 đến câu 756,  có ý nghĩa rất đặc biệt trong kiệt tác này. "Toàn bộ Truyện Kiều là một bi kịch. Đây là một bi kịch nhỏ trong bi kịch lớn ấy” (Lê Trí Viễn). “Bi kịch nhỏ” nhưng đầy xót xa, đau đớn đã mở đầu cho chuỗi bi kịch trong cuộc đời mười lăm năm lưu lạc của Kiều - nhân vật trung tâm của tác phẩm. Đoạn trích là sự kết tinh tài năng nghệ thuật miêu tả tâm lí tài tình, tinh tế và “tấm lòng thơ với tình đời thiết tha” của Nguyễn Du.

Hiện nay, đã có nhiều nguồn tài liệu phong phú, đa dạng định hướng giảng dạy trích đoạn “Trao duyên” như:  Sách giáo viên Ngữ văn lớp 10; Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Ngữ văn lớp 10; Tài liệu dạy học theo chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Ngữ văn 10... Bên cạnh đó, những phát hiện và kiến giải của  các nhà nghiên cứu thực sự là những tư liệu quý giá giúp cho việc giảng dạy của giáo viên và học tập của học sinh khi tiếp cận đoạn trích này. Thế nhưng “Trao duyên” vẫn còn nhiều gợi mở thú vị cho những ai yêu thích ”Truyện Kiều” muốn tìm tòi , khám phá. Ở bài viết này, chúng tôi  mạnh dạn đề xuất một hướng tiếp cận đoạn trích “Trao duyên” từ những mối quan hệ đối lập.

Cậy em, em có chịu lời,
 Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
          Giữa đường đứt gánh tương tư,
       Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.
Kể từ khi gặp chàng Kim,
      Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.

Sự đâu sóng gió bất kỳ,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?
Ngày xuân em hãy còn dài,
     Xót tình máu mủ, thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
        Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.
Chiếc vành với bức tờ mây
        Duyên này thì giữ, vật này của chung.
Dù em nên vợ nên chồng,
             Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên.
Mất người còn chút của tin,
                   Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.
Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ gió cây,
Thấy hiu hiu gió, thì hay chị về.
   Hồn còn mang nặng lời thề,
    Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.
  Dạ đài cách mặt, khuất lời,
           Rảy xin chén nước cho người thác oan.
  Bây giờ trâm gãy bình tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!
    Trăm nghìn gửi lạy tình quân
      Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!
    Phận sao phận bạc như vôi?
       Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
    Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
          Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!

                      (Sách Ngữ văn 10, Tập II, trang 104-105)

2. Nội dung

Nguyễn Du đã phát hiện những mặt đối lập mà thống nhất để tạo dựng hàng loạt mối quan hệ giữa lí trí - tình cảm, hữu hình - vô hình, hiện thực - khát vọng, vị tha - vị kỉ, hạnh phúc – khổ đau, mê –tỉnh, chung tình - phụ tình…Giữa chúng có sự đan xen vào nhau, tác động lẫn nhau để khắc hoạ sâu đậm tâm trạng và phẩm chất của nhân vật. Thực ra, kết cấu bằng cách tạo dựng những mối quan hệ đối lập trong thơ là một thủ pháp nghệ đã được nhiều nhà thơ vận dụng rất thành công. Đặc biệt thủ pháp này đã trở thành cấu tứ đặc trưng của thơ Đường. “Một trong những đặc điểm của cấu tứ thơ Đường là các nhà thơ không bao giờ nói trực tiếp và nói hết ý mình mà chỉ dựng lên các mối quan hệ để độc giả luận ra dụng ý tác giả từ những mối quan hệ ấy” (Nguyễn Khắc Phi). Thủ pháp này trở nên đắc dụng đối với việc diễn tả những nghịch lí trong tình yêu như “Tôi yêu em” của Pus-kin, “Bài thơ tình số 28” của Tagore, “Sóng” của Xuân Quỳnh...Khai thác các mối quan hệ đối lập chính là để nhà thơ có thể đi tìm cái bề sâu, bề xa của sự vật, hiện tượng, nâng cao tầm suy nghĩ cho thơ. Nó còn khiến cho hình ảnh và ý tưởng thơ biến hóa và bất ngờ tạo sức hấp dẫn, đồng thời thể hiện cái nhìn nghệ thuật đầy trải nghiệm và am hiểu sâu sắc cuộc sống của các nhà thơ. Kết cấu đối lập này dưới ngòi bút tài hoa, sáng tạo của nhà thơ, đem đến cho người đọc những dự cảm xung đột trong cảm xúc, như được gợi ra một sự bừng tỉnh của nhận thức thẩm mỹ, khiến đọc xong bài thơ, ta cảm thấy tác giả đem đến cho ta một cảm xúc mới lạ mà tựa như ta vẫn thấy, vẫn cảm nhận được mà nay đã có người nói hộ thành lời. Trên tinh thần kế thừa và sáng tạo, đại thi hào Nguyễn Du đã thực sự thành công khi lựa chọn thủ pháp đối lập để khắc họa đời sống nội tâm đa dạng, phức tạp và từ đó làm nổi bật lên những phẩm chất cao đẹp của Thúy Kiều - người phụ nữ tài sắc nhưng bạc mệnh trong đoạn trích “Trao duyên”.

Cuộc trao duyên diễn ra trong một nghịch cảnh hết sức éo le. Bỗng dưng tai họa ập đến với gia đình Thúy Kiều: cha và em của Kiều bị vu oan và bị bọn sai nha bắt bớ và đánh đập vô cùng dã man. Để có tiền ba trăm lạng cứu cha và em, cách duy nhất Kiều có thể nghĩ đến là phải bán mình. Thế nhưng đau đớn thay, Kiều lại trót thề nguyền đính ước với chàng Kim. Đứng trước cảnh ngộ này, Thúy Kiều bị đặt trong tình thế đứng giữa hai sự lựa chọn: chữ hiếu dành cho cha và chữ tình dành cho Kim Trọng - người đã cùng nàng thề nguyện ước “Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương”. Nếu chọn chữ hiếu thì nàng bội nghĩa tình, lỗi hẹn lời thề với Kim Trọng, nhưng nếu trọn chữ tình thì lại trở thành người con bất hiếu. Trước những tình cảnh khốn khổ đó, Kiều đã giải quyết  mâu thuẫn giữa hiếu và  tình bằng cách quyết định lấy đạo hiếu làm đầu, chấp nhận bỏ dở chuyện tình yêu bán mình lấy tiền chuộc cha, cứu em để gia đình được yên ổn. Sau khi việc bán mình đã được thực hiện, cha và em trai đã được tha, trong đêm cuối cùng trước ngày Kiều đi theo Mã Giám Sinh,  Kiều đã băn khoăn, trăn trở, dằn vặt, khó xử khi nghĩ về Kim Trọng - mối tình đầu đầy say đắm của nàng. Lúc gia đình Kiều ở trong thảm cảnh này, Kim Trọng vẫn đang chịu tang ở quê, chưa hề hay biết điều gì. Đứng trước tình huống éo le này, Kiều đã quyết định nhờ em gái Thúy Vân thay mình nối duyên Kim Trọng vì đây là cơ hội cuối cùng nàng trả nghĩa cho chàng Kim.

“Trao duyên” ở đây được hiểu là gửi duyên, gửi tình của mình cho người khác, nhờ người khác nối lại mối duyên dang dở của mình để trả nghĩa, để trọn lời thề, lời đính ước với người mình yêu. Vậy nên, việc thuyết phục Thúy Vân chắp “mối tơ thừa” với Kim Trọng quả là vô cùng khó khăn (“Hở môi ra cũng thẹn thùng/ Để lòng lại phụ tấm lòng với ai”).  Hơn ai hết Kiều hiểu rằng bắt Thúy Vân phải chắp mối tơ thừa “lấy người yêu chị làm chồng” là sự thiệt thòi, hy sinh rất lớn. Vậy nên để em chịu lời, Kiều vừa phải thuyết phục bằng lý lẽ, vừa phải thuyết phục bằng tình cảm. Với ngòi bút tài hoa bậc thầy và sự am hiểu sâu sắc tâm lí nhân vật, Nguyễn Du phát hiện ra nhiều nghịch lí trong diễn biến tâm lí và nhân vật và thể hiện thành công thông qua  những mối quan hệ  đối lập nhưng thống nhất.

           2.1. Trước hết là mối quan hệ vô lí nhưng có lí, nghịch lí nhưng thuận lí thể hiện qua ngôn ngữ, hành động giao tiếp, ứng xử của Kiều trước khi trao duyên cho em gái Thúy Vân. Vô lí bởi xét theo vai vế,  Kiều là  chị của Vân  mà lại bảo em “ngồi lên” để chị “lạy, thưa" thì quả là đã báo hiệu cho một sự việc bất thường nhưng vô cùng quan trọng để Vân chuẩn bị tâm lí về những điều Kiều sắp nói ra. Lời nói của Kiều đối với Vân không còn là ngôn ngữ thông thường của chị nói với em trong một gia đình nho giáo, nề nếp nữa. “Cậy em” chứ không phải “nhờ em”. “Cậy” là nhằm nhấn mạnh chỉ có em mới là người chị tin cậy nhất. Vì thế “cậy” có sức nặng của niềm tin hơn “nhờ”. “Chịu lời” chứ không phải “nhận lời”. Chịu lời buộc người mình tin phải nghe theo khó thể từ chối. Những lời nói đó của Kiều, đặc biệt là sự khẩn khoản em “Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa” đã tạo nên không khí trang trọng đặc biệt mở đầu cho một tình huống tâm lí hết sức phức tạp. Kiều chấp nhận hạ mình xuống địa vị thấp hơn để van lơn, cầu khẩn chính đứa em ruột của mình. Vị thế hai chị em Kiều đã có sự đảo lộn. Vẫn xưng hô là chị em, mà thực tình lại là quan hệ giữa một người bề dưới và một người bề trên, giữa người ban ơn và kẻ chịu ơn. Chị trở thành kẻ chịu ơn. Em trở thành người ban ơn. Lời nói và hành động có vẻ vô lí khi xét về quan hệ vị thế trong văn hóa giao tiếp của người Việt song lại có lí về mối quan hệ giữa ân nhân và người chịu ơn. Từ mối quan hệ đó đã phần nào cho thấy sự thông minh, khôn khéo trong ứng xử của Kiều để đạt được đích giao tiếp chính là nhờ em thay mình nối duyên Kim Trọng - một việc vô cùng hệ trọng, tế nhị và cũng thật khó nói.   

2.2. Nếu cuộc trao duyên đầy hệ trọng được bắt đầu khơi mở từ mối quan hệ đối lập giữa sự vô lí và có lí, nghịch lí nhưng thuận lí thì những câu thơ tiếp theo lại được Nguyễn Du tập trung bút lực để khắc họa rõ nét hơn sự thông minh, khôn khéo và tâm trạng ngổn ngang của Kiều thông qua mối quan hệ đối lập giữa lí trí và tình cảm, giữa muốn và không muốn: lí trí thì điềm tĩnh, kìm nén còn tình cảm thì xúc động, dâng trào; lí trí thì muốn trao duyên nhưng tình cảm lại không muốn. Về mặt lí trí, Kiều nhận thức được việc trao duyên  là sự hi sinh tình yêu vì chữ hiếu - phẩm chất đạo đức đặc biệt quan trọng theo quan điểm Nho giáo (“Làm con trước phải đền ơn sinh thành”). Bởi vậy, cuộc trao duyên này hết sức hệ trọng, là chuyện lớn, nghiêm túc, khẩn thiết chứ không phải đơn thuần chỉ là chuyện gá nghĩa hay “tình chị duyên em”. Kiều hiểu được gánh nặng mà mình sắp trao cho em và càng hiểu sâu sắc hơn về tình thế khó xử của Vân. Vì vậy, Kiều đã tìm cơ hội để thực hiện: đó là vào đêm thanh vắng, chỉ có hai chị em, ngày mai mình phải từ biệt gia đình thì mới dễ đánh vào lòng trắc ẩn của Thúy Vân nhằm cái đích chủ yếu là dọn một con đường của trái tim đến với trái tim. Để thuyết phục được em từng chữ được thốt ra đều được nhân vật cân nhắc kĩ càng, chọn lọc. Sự chọn lọc chính xác ấy cho ta thấy Kiều lí trí suy nghĩ rất thấu đáo, rất kĩ càng rồi mới quyết định trao mối nhân duyên của mình cho Thúy Vân.

Lí trí vô cùng tỉnh táo, suy nghĩ vô cùng thấu đáo được thể hiện rất rõ qua lí lẽ Kiều đưa ra thuyết phục Thúy Vân. Kiều đã vô cùng  sắc sảo, thông minh, khôn khéo, tế nhị khi đưa ra lí lẽ  và lập luận về tình thế éo le của bản thân. Thứ nhất là, do tai họa ập đến bất ngờ, chị hi sinh vì hiếu thì không thể trọn vẹn chữ tình (Sự đâu sóng gió bất kì/ Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”). Thứ hai là, em còn trẻ, hơn nữa giữa chị với em là tình máu mủ, ruột rà (“Ngày xuân em hãy còn dài/Xót tình máu mủ thay lời nước non”).  Kiều đã lay động ở Vân tình cảm chị em ruột thịt để cầu xin như vậy chắc Thúy Vân cũng không nỡ từ chối. Thứ ba là, chị sẽ trao em hết những kỉ vật của tình yêu: Chiếc vành với bức tờ mây” cho em. Thứ tư là, Kiều viện cả cái chết của mình ra để nói lên sự toại nguyện nếu Vân nhận lời thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng. Cuối cùng, nàng lấy chính cái chết của mình tỏ lòng biết ơn để Vân không thể thoái thác (Chị dù thịt nát xương mòn/ Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây). Với sự thuyết phục đầy chân tình, khôn khéo của Kiều khiến cho  Thúy Vân lặng im nghe giãi bày và mặc nhiên phải chấp nhận. Chính vì vậy, đích của của Kiều đã thành công.

Tuy nhiên, khi thuyết phục, lí trí rất rành rọt, tỉnh táo giọng điệu của nàng vẫn bình tĩnh, nhưng đến lúc trao kỉ vật, Kiều lại  không thể kìm nén được cảm xúc đang dậy sóng trong lòng. Trái tim bắt đầu lên tiếng. Có thể thấy, mâu thuẫn giữa lí trí và tình cảm, giữa bên ngoài và bên trong, giữa lời nói và hành động đã bộc lộ đỉnh điểm khi Kiều trao những kỉ vật cho Vân. Khẩn khoản, van nài em nhận lời trao duyên của mình, Thúy Kiều đã mất bao công sức để thuyết phục, nhưng chính lúc Vân chấp nhận thì Kiều lại chới với cố níu lại tình yêu bằng kỉ vật (Chiếc vành với bức tờ mây/ Duyên này thì giữ vật này của chung”). Cầm đến kỉ vật, kỉ niệm tình yêu sống dậy. Kỉ vật ở đây là tờ mây (Tờ hoa tiên ghi lời thề nguyền của Kim - Kiều) và chiếc vành (chiếc vòng xuyến đeo tay trước đây chàng Kim trao cho Kiều làm của tin). Vật chung là vật lưu dấu tình yêu Kim, là vật thề ước, là sự chứng thực cho một tình yêu hạnh phúc, say  đắm “Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề”. Nhưng mất nó đồng nghĩa Kiều với Kim không còn là gì cũng như tình yêu sẽ đổ vỡ không thể hàn gắn. Kỉ vật đó với Thuý Vân chỉ đơn giản là vật làm tin nhưng với Thuý Kiều nó lại là tình yêu. Với Kiều đây không chỉ là hành động trao kỉ vật mà nàng đang phải vĩnh biệt mối tình đầu trong sáng và đẹp đẽ của mình. Thuý Kiều không còn đủ lí trí để kìm nén được nữa “Duyên này thì giữ, vật này của chung”. “Bao nhiêu đau đớn dồn vào hai tiếng đơn sơ ấy” (Hoài Thanh). Khi  trao kỉ vật cho Vân, Kiều giằng xé giữa lí trí và tình cảm: lí trí thì nàng muốn trao hết cho em, nhưng tình cảm dường như không muốn. Duyên đã trao và trao được nhưng tình lại không thể dứt. Vậy là, nghĩa đã được trả bằng cuộc hôn nhân sắp tới của Kim -Vân song phần tình vẫn bế tắc. Như vậy giữa lí trí và tình cảm vẫn mâu thuẫn bởi giữa tình và nghĩa vẫn chưa thể  giải quyết được trọn vẹn mà ngày càng dâng cao hơn. Một loạt mối quan hệ đối lập khác đã được Nguyễn Du tiếp tục khai thác.

2.3. Nhiều cung bậc cảm xúc, tâm trạng hiện dần lên qua mối quan hệ giữa cái hữu hình và vô hình. Sự hiện diện của cái hữu hình là những kỉ vật lại càng làm hiện rõ cái vô hình là tình yêu sâu sắc, mãnh liệt, là sự đau đớn, xót xa khi phải chia tay với tình yêu của Kiều. Việc nhớ đến từng chi tiết của kỉ niệm cho thấy nàng trân trọng tình yêu, thiết tha với tình yêu biết nhường nào. Khi thuyết phục em, Kiều đã nói với Vân nếu em “thay lời nước non” nối duyên với Kim Trọng thì chị có chết, “thịt nát xương mòn” vẫn cảm thấy thanh thản (Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây). Thế mà  khi trao duyên, trao cho Vân  kỉ vật thiêng liêng là “chiếc vành với bức tờ mây” Kiều lại dùng dằng “Duyên này thì giữ vật này của chung”. Không chỉ vậy,  khi trao “phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”, Kiều lại tiếp tục mâu thuẫn với chính mình. Kỉ vật đã trao để Kim -Vân nên duyên vợ chồng song Kiều vẫn còn vương tơ lòng với tiếng tơ trên phím đàn, với mùi hương của mảnh trầm (Mai sau dù có bao giờ/ Đốt lò hương ấy, so tơ phím này”). Đây là những vật  gợi nhớ một khung trời kí ức về kỉ niệm những ngày hai người đốt hương và gảy đàn bên nhau. Những lời dặn dò của Kiều cho ta có cảm giác khi  Kim -Vân nên vợ chồng, mỗi khi “Đốt lò hương ấy so tơ phím này” như Kim - Kiều ngày xưa thì hồn Kiều lại trở về (“Thấy hiu hiu gió thì hay chị về)”. Hơn nữa, hồn của Kiều khi về còn mang nặng lời thề và vẫn nguyện nát thân bồ liễu để đền trả món nợ tình. Thúy Kiều một mặt vừa mong em gái và Kim Trọng sẽ có cuộc sống hôn nhân hạnh phúc và êm đềm, mặt khác lại mong rằng mình được sum họp trong những giây phút hạnh phúc bên cạnh Kim Trọng và Thúy Vân. Lời dặn dò của Thúy Kiều với em gái cho thấy bao mâu thuẫn giằng xé, bao bế tắc và khổ đau đang chất chứa trong lòng. Kiều đang nhớ thương Kim Trọng khôn nguôi, đang luyến tiếc mối tình đầu tươi đẹp, đang thổn thức, xót xa.

                                                                                                               (Còn nữa)

                                                               TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2017), Ngữ văn 10, Tập 2, Nhà xuất bản Giáo dục Hà Nội.
  2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Sách giáo viên Ngữ văn 10, Tập 2, Nhà xuất bản Giáo dục Hà Nội.
  3. Đặng Thanh Lê (2008), Giảng văn truyện Kiều, Nhà xuất bản Giáo dục Hà Nội.

4.    https://baoquocte.vn/truyen-kieu-xac-lap-ky-luc-the-gioi-18416.html

5.    Nhiều tác giả, Giảng văn văn học Việt Nam (1997), Nhà xuất bản Giáo dục Hà Nội.

6.    Phan Ngọc (2007), Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, Nhà xuất bản Thanh Niên.

7.  Trần Đình Sử (1998), Thi pháp Truyện Kiều, NXB Giáo dục Hà Nội .

8.  Trần Nho Thìn (Chủ biên) (2016), Phân tích tác phẩm Ngữ văn 10, Nhà xuất bản Giáo dục Hà Nội.